Chính sách ngoại giao và buôn bán của ông đan xen với nhau. Chuyến
thăm của Hoàng hậu xứ Sheba đến từ Nam Ả-rập liên quan đến thương
mại, vì Solomon kiểm soát thương mại Ả-rập, chủ yếu là nhựa thơm từ cây,
hương trầm và gia vị. Josephus kể với chúng ta rằng Solomon tổ chức các
cuộc thi đố vui với Hiram xứ Tyre, một vị vua buôn bán vĩ đại khác. Đây
không phải là một hình thức trao đổi ngoại giao bất thường thời kỳ đồ sắt
sớm, bao gồm nộp phạt bằng tiền mặt - đôi khi bằng thành phố - và là một
phần của quá trình hàng đổi hàng. Solomon và Hiram cùng nhau điều hành
một đội thuyền từ Ezion-Geber ở phía nam tới Ophir, cái tên được họ đặt
cho Đông Phi. Hai vị vua này buôn bán thú và chim quý hiếm, gỗ đàn
hương và ngà voi. Ngoài ra, Solomon còn buôn cả vũ khí. Ông mua ngựa
từ Cilicia rồi đem bán sang Ai Cập để đổi lấy xe ngựa kéo, rồi bán lại xe
ngựa kéo cho các vương quốc ở phía bắc của mình. Solomon trên thực tế là
nhà cung cấp vũ khí cho một phần đáng kể của Cận Đông. Gần bến cảng
của ông ở Ezion-Geber, nhà khảo cổ học người Mỹ Nelson Glueck tìm thấy
xưởng luyện đồng mà Solomon xây dựng trên đảo Hirbet el-Kheleifeh, nơi
gió mạnh làm cho ống khói lò luyện hoạt động. Xưởng này không chỉ luyện
đồng mà còn cả sắt, và sản xuất sản phẩm hoàn thiện.
Phần lớn của cải mà Solomon có được từ buôn bán và thuế, ông đều đổ vào
kinh đô. Ông cho xây một cung điện hoàng gia xa hoa, với một sảnh lớn có
cột đỡ trần như các cung điện của pharaoh ở Memphis, Luxor và các nơi
khác, mái làm từ gỗ tuyết tùng được chống bằng 45 cột gỗ khổng lồ mà
Kinh Thánh gọi là “Cung Rừng Liban.” Một cung điện riêng được xây cho
người vợ cả của ông, người Ai Cập, vì bà giữ đức tin ngoại đạo của mình:
“Không phụ nữ nào được ở với ta trong nhà của Đavit vua Israel, vì đó là
những nơi thánh, những nơi khám của Yavê đã đến.”
hoàng gia, doanh trại và công sự bên trong nằm gần một khu thiêng mới,
hay Ngôi đền, toàn bộ có đủ chỗ là nhờ mở rộng thành David 250 mét về
phía đông.