phương cắm ranh, khẩn hoang đợt đầu tiên cho họ rồi họ gom lại, trở thành
đại điền chủ.
Rồi tình trạng hỗn loạn, tranh chấp, tham nhũng lại xảy ra. Nhiều người có
uy thế, nhìn xa và rành luật lệ đã nộp đơn tại Sài Gòn xin trưng khẩn, vì
trên bản đồ những phần đất này vô chủ. Khi thấy đất khai thác xong, bắt
đầu có huê lợi thì họ đến địa phương để tranh chấp với những người thật
sự khai khẩn (nhưng không có giấy tờ).
Nhà nước phàn nàn rằng dân đã tự động chiếm đất công thổ, không có cách
gì ngăn được. Nhưng một số thân hào nhân sĩ, hội đồng, cai tổng hoặc đại
điền chủ ở những tỉnh khác thì lại vui mừng vì rốt cuộc, những vùng đất
này rơi vào tay họ. Một số người Pháp cũng lợi dụng tình thế để lập đồn
điền. Nhà nước lại xúc tiến việc đạc điền, để ghi vào bộ và đánh thuế. Dân
địa phương nổi lên tranh chấp, ngăn cản những kẻ chiếm đoạt đang mướn
chuyên viên đến đo đạc. Hoặc dân địa phương dùng khí giới bén mà ngăn
chận những người tự xưng là “chủ đất hợp pháp” đến đòi thâu lúa ruộng.
Hoặc họ tự đứng đơn tập thể, kéo nhau đến Tòa bố (tòa Hành chánh tỉnh)
để ngồi lì, hoặc tự vệ một cách tuyệt vọng.
Luật lệ về trưng khẩn
Nhiều luật lệ về trưng khẩn đất ruộng ra đời, ban đầu thể thức dễ dãi, lần
hồi thì siết lại thêm khó khăn. Xin lược kê những nghị định căn bản, với
nét chánh :
— Những nghị định năm 1864, 1871 và 22/8//1882 : ngoại trừ những đất
đã canh tác rồi hoặc đất thổ cư (đặc biệt là đất thổ cư ở Sài Gòn, Chợ Lớn)
thì đất công thổ cho trưng khẩn không, tức là không bán lại bằng tiền.
Muốn khẩn thì làm đơn, ghi diện tích, ranh giới, rồi đóng thuế. Những
nghị định trên không nêu điều kiện là bắt buột người trưng khẩn phải khai
thác, không được bỏ đất hoang (về sau, nghị định 15/10/1890 bổ túc chi tiết
này). Tham biện chủ tỉnh được quyền cho trưng khẩn những sở đất nhỏ
dưới 20 mẫu (nghị định 9/6/1886 rút lại còn 10 mẫu).
— Nghị định 15/10/1890 bắt buộc phải canh tác trong thời gian là 5 năm
cho xong và định rằng nhà nước có quyền lấy lại đất khi có nhu cầu công
ích (đào kinh, đắp lộ...)