Thống đốc Nam kỳ : “Bây giờ dân không biết đi đâu hết vì nội tổng tôi
không có lúa, nó đi kiếm ăn đỡ đói”.
Đất ruộng nói chung thì tập trung về phía Đông giáp qua Sóc Trăng, nơi đã
có người làm chủ từ lâu. Dân mới đến lập nghiệp chỉ còn vùng đất gần
biển hoặc đất quá thấp phía mũi Cà Mau. Năm 1902, vài người khẩn đất lại
phá sản, trả lại cho nhà nước vì đất không huê lợi, không sao đóng thuế
được. Người nọ khẩn 160 mẫu ở Tân Hưng, thiếu thuế rồi bị bỏ tù, hương
chức làng dán yết thị, rao bán đất ấy để bù tiền thuế nhưng chẳng ai thèm
mua.
Làng Tân Thuận phía Cà Mau khai với quan trên : “đất đồng không có, làm
đất ráng (tức là sình lầy có ráng mọc) theo mé sông, nước mặn tràn vô làm
hư lúa, nước không tràn khi nào mưa muộn”. ở Tân Duyệt, trừ số đất cao
ráo có người khẩn từ xưa thì “dân nó làm ruộng đất rẫy là đất dừa nước,
chà là và ráng ở gần biển”, đa số đất ở gần biển vùng mũi Cà Mau đều là
“nê địa ủng tắt”. Theo giá trị thường, một mẫu đất tốt ở Mỹ Tho, Gò Công
trị giá từ 200 đồng đến 300 đồng trong khi đất gọi là đốt ở vùng Cà Mau trị
giá không hơn 100 đồng.
Nhờ quy chế mỗi người được khẩn 10 mẫu (gọi là đất công nghiệp) nên
dân tứ xứ luôn cả những người đã thất bại ở Rạch Giá trong đợt khai thác
đầu tiên đều rủ nhau đến Cà Mau. Nói chung thì đất hoang ở tỉnh Bạc Liêu
quá thấp, có chân nước mặn, ba bốn năm đầu khó thâu huê lợi.
Mức trưởng thành của Bạc Liêu, Cà Mau khi chuyển mình góp phần lớn
vào vựa lúa miền Nam, có thể đánh dấu vào khoảng 1914, khi nhà nước
cho nghiên cứu đào kinh Quan Lộ, nối liền Phụng Hiệp xuống Cà Mau (gọi
Quan Lộ vì kinh này khởi đầu từ rạch Quan Lộ). Nhờ đó mà trong tương lai
gần, lúa gạo vùng Bạc Liêu, Cà Mau được chở về Sài Gòn theo đường
thủy, ngang qua Rạch Giá, Cần Thơ rồi Trà Ôn, Vĩnh Long (Mân Thít)...
Năm 1927, người Pháp chỉ làm chủ ở Bạc Liêu chừng 30.000 mẫu. Bạc
Liêu tiến sau các tỉnh khác, nhưng theo tốc độ nhanh.
Năm 1893, bán ra 316.000 tạ gạo.
Năm 1921, bán ra 2.733.330 tạ.
Năm 1927, diện tích canh tác lúa gạo của Bạc Liêu đứng hạng nhì ở Nam