hai thành phố, mỗi cái đều rộng lớn bằng kinh đô nước Xiêm La, ấy là :
— Sài Gòn.
— Pingeh.
Nên hiểu Pingeh là Bến Nghé (Sài Gòn ngày nay), còn Sài Gòn là Chợ Lớn
ngày nay.
Mức sản xuất lúa gạo lúc bấy giờ gia tăng như thế nào ?
Chúng ta không có con số cụ thể. Chỉ biết là năm 1804, vua Gia Long sai
các quan địa phương trữ lúa thuế vào kho cho nhiều. Kho Đồn Điền của
Gia Định thành dựng năm 1805 gồm hai dãy kho ngói, mỗi dãy gồm sáu
gian, trữ số lúa đồn điền để làm số lưu trữ, còn dư thì trữ theo kho ở các
trấn.
Năm 1804, nước Lữ Tống (Phi Luật Tân) đói, xin đong gạo Gia Định, vua
cho đong 500000 cân gạo, năm 1817 vùng Long Hồ, Sa Đéc đủ sức bán
cho Cao Miên, nhân nạn đói đến 10000 hộc lúa. Năm 1816, có lịnh cấm
thuyền buôn không được chở lúa gạo ra nước ngoài. Đường thủy cũng
được tu chỉnh lại, nhằm chuyên chở lúa gạo từ sông Cửu Long lên Sài Gòn
: năm 1819, sửa lại cho rộng và cho sâu con kinh nối liền từ Vũng Gù (Tân
An) đến rạch Mỹ Tho mà Nguyễn Cửu Vân đã cho đào từ năm 1705, dùng
non 10000 dân phu trong trấn Định Tường. Đào xong, vua đặt tên là Bảo
Định Hà.
Cũng năm 1819, sai Huỳnh Công Lý đốc xuất dân phu đào con kinh nối
liền từ cầu Bà Thuông (Thị Thông) đến kinh Ruột Ngựa (kinh Ruột Ngựa
đào từ năm 1772), vua đặt tên là An Thông Hà vừa rộng, vừa sâu, hai bên
bờ để đất trống, đưa sản phẩm từ Tiền giang lên Sài Gòn “dòng sông sâu
rộng, ghe thuyền đậu dài 10 dặm, theo hai con nước lên, nước ròng, thuyền
bè qua lại chèo chống ca hát, ngày đêm tấp nập, làm chỗ đô hội lưu thông
khắp ngả, thật là tiện lợi”.
Hương binh được bãi cho về cày ruộng (1810). Lúc chiến tranh, nhiều
cường hào lợi dụng thời cơ, chiếm đất của dân nên vua định lệ quân cấp
công điền công thổ (1804), và công điền công thổ không được bán vì bất
cứ lý do gì. Ai làm ruộng ẩn lậu, không khai báo để đóng thuế thì có thể
mất đất, đất giao cho người tố giác.