nước ở đồng ruộng vùng Cần Thơ, Thốt Nốt, Ô Môn hồi đời Minh Mạng
tương đối cao hơn bây giờ. Vào mùa lụt (bấy giờ chưa có nhiều kinh đào
đổ nước ra vịnh Xiêm La như sau khi người Pháp đến).
Rạch Cần Thơ nổi danh là phì nhiêu, đất tốt, không bị ngập. Vùng Cái
Răng trở thành làng vào đời Minh Mạng rồi phát triển thêm. Năm Minh
Mạng thứ 15 (1834), làng Thường Thạnh của Cái Răng tăng thêm dân cư,
tách ra một làng mới lấy tên là Trường Thạnh.
Rạch Bò ót được dân khẩn hoang chú ý.
Rạch Cái Côn đã có làng từ đời Gia Long (làng Phú Mỹ), ấy thế mà năm
Minh Mạng thứ 19 (1838) còn đến năm khoảnh rừng rậm hoang vu. Làng
Bình Mỹ cũng thành lập từ đời Minh Mạng, ăn tới rạch Cái Dầu. Vùng
Thốt Nốt, đời Gia Long chỉ có làng Thới Thuận, qua Minh Mạng thêm các
làng Tân Thuận Đông, Vĩnh Trinh.
Những làng vừa kể trên trở thành phần đất của các tổng mới lập : Châu
Phú, Định Thành, Định Phước, thuộc huyện Tây Xuyên (có nghĩa là bờ
phía Tây của Hậu Giang). Từ Cần Thơ trở xuống thuộc về huyện Vĩnh
Định với các tổng Định Thới, Định An, Định Khánh. Phía Sa Đéc, vùng
Cái Tàu Thượng, Cái Tàu Hạ, Nha Mân và những cù lao trên Tiền giang
đã đông đúc dân cư từ đời Gia Long. Đời Minh Mạng còn lưu lại vài văn
kiện xác nhận việc xúc tiến khẩn hoang ở huyện Vĩnh An, với nhiều đơn
xin khẩn đất :
— Năm Minh Mạng thứ 12, khẩn thêm ở các thôn Tân Dương, Tân Đông,
Tân Phú Đông, Phú Mỹ, Tân Hòa, Tân Quý, Tân Thuận.
— Năm Minh Mạng thứ 19 và 20, khẩn thêm ở các tổng An Thới, An
Thạnh, An Mỹ, An Trường, những vùng Nha Mân, cù lao Tòng Sơn, rạch
Cái Vồn được chú ý nhứt.
Từ đời Minh Mạng về sau, phần đất phì nhiêu, nhiều huê lợi của An giang
vẫn là phía Tiền giang với Sa Đéc và các vùng phụ cận.
Việc lập làng — Sự phân chia điền địa
Vua Minh Mạng đặc biệt khuyến khích việc lập ấp ở vùng Châu Đốc. Năm
1830, thành thần trấn Gia Định tâu : Hạt Châu Đốc là vùng biên cương mới
mẻ, ruộng đất chưa được khai khẩn hết, xin triển hoãn việc thâu thuế. Vua