người Miên sống tập trung từ lâu đời. Binh ta gồm năm đạo, mỗi đạo 1000
quân, đem súng lớn đặt tại Tri Tôn (Xà Tón) mà bắn phá lũy giặc. Nguyễn
Tri Phương đem đại binh đến núi Cô Tô, giặc tan, một số đông ra đầu thú
gồm người Tàu và người Miên có đến số ngàn. Vua Thiệu Trị sai Nguyễn
Công Trứ điều động việc lập ấp, khuyến khích khẩn ruộng. Nhưng ta tin
rằng việc làm này không đi tới đâu cả, đất ở chân núi từ lâu đã được người
Miên canh tác, họa chăng các quan của ta chỉ lo chỉnh đốn an ninh trong
các sốc Miên.
Rồi ta kéo quân lên phía Nam Vang, truy nã. Tháng 7 năm 1845, giặc Miên
lại đến bờ kinh Vĩnh Tế tại làng Vĩnh Điền, phá rồi Trường Lũy (Trường
Lũy là bức trường thành mà ta dựng lên, trồng tre gai, xa xa có đồn nhỏ
dọc theo kinh Vĩnh Tế, khi Pháp đến còn di tích này). Nhưng giặc bị đánh
lui.
Năm 1845, ta thắng vài trận đáng kể. Đến lượt Nguyễn Tri Phương và
Doãn Uẩn thi tài với Phi Nhã Chất Tri. Ta tiến đến Vũng Long (Kompong
Luông). Cao Miên nhìn nhận sự bảo hộ song phương của Xiêm và Việt
Nam.
Thành lập các đồn điền chiến lược
Hậu quả những năm loạn lạc ở vùng An Giang, Trà Vinh, Ba Xuyên, Hà
Tiên như thế nào ? Chắc là trầm trọng lắm. Hễ loạn lạc là đốt nhà cướp của,
bộ sổ mất mát, quan lại tham nhũng, cường hào thổ mục tha hồ húng hiếp
dân. ở những vùng người Miên sống tập trung, việc bình định chỉ có nghĩa
là gìn giữ được an ninh. Mầm mống bất mãn vẫn còn. Vua Thiệu Trị mất
năm 1847, ngài gánh tất cả những hậu quả của vua Minh Mạng để lại. Tình
thế không suy sụp là nhờ tướng tài, giàu kinh nghiệm chiến trường và quân
sĩ hết lòng. Doãn Uẩn dựng chùa Tây An ở núi Sam năm 1847 là việc có
nhiều ý nghĩa đối với nhân tâm thời bấy giờ và nhứt là đối với cá nhân một
nho sĩ hăng hái nhưng thấm mệt.
Công tác khẩn hoang ngưng trệ, nếu không nói là bị đổ vỡ phần nào ở Hậu
giang. năm Thiệu Trị thứ ba (1843), đào thêm con kinh nối liền Tiền giang
(từ Tân Châu) đến thủ Châu Giang phía Hậu giang. Kinh này ngắn nhằm
mục đích quân sự để chiến thuyền đi nhanh từ Tân Châu đến vịnh Xiêm La