dụ như vài lít rượu nếp thứ ngon, một thúng nếp trắng, một cặp vịt vào dịp
đám giỗ trong gia đình chủ điền hoặc ngày Tết, theo kiểu chư hầu cống sứ
cho thiên tử. Đáp lại, nhiều chủ điền tỏ ra rộng lượng, bố thí và tích đức
cho con cháu mình bằng cách đốt bỏ giấy nợ của tá điền, loại giấy nợ
không thanh toán nổi từ mấy năm trước vì mất mùa hoặc đau yếu.
Thân phận đàn ông làm tá điền gẫm lại còn khỏe hơn đàn bà. Đàn bà trong
gia đình nghèo lo lắng cực nhọc, trong ngoài : gặt lúa, cấy lúa, bửa củi,
nuôi heo gà, xay lúa giã gạo, lại còn nuôi con. Con trẻ lớn lên đôi khi trở
thành một thứ động sản mà cha mẹ đem cầm cố cho người khác để chăn
trâu, khi nào dứt nợ hoặc đủ tiền chuộc thì mới được về nhà.
Về mức sống cụ thể của chủ điền, chúng tôi không sưu tầm được tài liệu để
so sánh, hoặc trường hợp tiêu biểu. Trong tài liệu của Luro, có sao lục lại
tờ chia gia tài của một chủ điền ở Tân Thành phủ, Vĩnh Phước thôn, tỉnh
An Giang tức là địa phận Sa Đéc đất ruộng phì nhiêu. Ông điền chủ này kê
khai tài sản để chia cho con cái :
— 3 sở đất cộng là 75 mẫu
— 2 đôi xuyến vàng
— 7 đôi bông vàng
— 10 đôi xuyến bằng vàng (tử kim)
— 4 bộ ngũ sự (chưn đèn, lư hương...)
— 10 xâu chuỗi hổ (hổ phách)
— 50 đính bạc, mỗi đính 10 lượng, tức là 500 lượng bạc.
— 1000 đồng bạc “điểu ngân” (bạc con ó Mễ Tây Cơ)
— 15000 quan tiền kẽm
và một số nợ mà người khác chưa trả cho ông.
Ông điền chủ nói trên làm tờ chia gia tài vào năm Minh Mạng thứ 20
(1839), để lại một nhà ngói ba căn, chẳng hiểu ngoài nghề làm điền chủ,
cho tá điền vay, ông còn buôn bán gì khác chăng ?
Về giá đất, có vài tài liệu như sau, lẽ dĩ nhiên giá thay đổi tùy theo địa
phương, tùy loại đất hoặc vị trí gần xa đường giao thông, chợ phố.
— Đất tốt (thảo điền) ở Định Tường : 10 mẫu, 9 sào, 8 thước trị giá 1682
quan, bán đứt, năm Thiệu Trị thứ 7.