Bởi vậy, túng tiền thì đem đất mà cầm hoặc cố; cầm thì phải chịu lời, trong
khi cố thì không chịu tiền lời. Lắm khi vì cần tiền nhiều và nhắm sức mình
khó trả, chủ đất đem cố trong thời hạn 10 hoặc 20 năm (lệ quy định quá 30
năm, con nợ không được quyền chuộc lại). Trong suốt thời gian đất bị cầm
hoặc cố, thường là người chủ nợ hưởng lợi, đem đất ấy cho người khác
canh tác mà thâu lúa ruộng.
Việc cầm cố thường xảy ra, nhứt là đối với người có đứng bộ vài sở đất. Họ
không dám vay nợ quá nhiều, vì vay nhiều thì chẳng cách nào trả nổi. Vay
bạc (không có đất cầm hoặc cố) thường chịu lời hơn 50 phần trăm mỗi
năm; dầu cho tiết kiệm và mùa màng thâu hoạch ở mức trung bình, huê lợi
ruộng nương chỉ đem lời độ 20 phần trăm mà thôi.
Cách đo lường thời đàng cựu
Đời Tự Đức, đơn vị để đo là một thước, còn gọi là thước quan, lấy tiêu
chuẩn là 22 đồng tiền đời Gia Long sắp liền nhau; phỏng định tương đối
chính xác là 526 ly (tức là hơn 5 tấc 2, tính theo mét).
Một thước quan chia ra 10 tấc, 1 tấc 10 phân.
Để đo diện tích ruộng đất, lệ xưa định một mẫu là diện tích của một hình
vuông mỗi góc 150 thước quan ; tính ra mẫu tây (hectare) là 62 ares, 2521.
Theo cố đạo Tabert thì một mẫu thời đàng cựu to hơn, là 73 ares, 0890.
Một mẫu chia ra 10 sào.
Một sào chia ra 15 thước, còn gọi là cao.
Người thời xưa quan niệm đơn giản rằng mẫu là sở đất hình vuông; sào là
sở đất hình chữ nhật với bề ngang là 15 thước, bề dài là 150 thước.
Người Pháp ra nghị định ngày 3/10/1865 để thống nhứt việc đo đạc, họ quy
định đại khái 2 mẫu ta ngày xưa là một mẫu tây (hectare). Như vậy có sự
sai biệt, thật ra, hai mẫu ta là 125 ares tức là to hơn một mẫu tây.
Một mẫu tây chia ra 100 sào tây (100 ares).
Về đong lường, trên nguyên tắc thì dùng hộc để đong lúa, dùng vuông để
đong gạo.
Một hộc chia ra 26 thăng, một thăng là 10 hiệp, một hiệp là 10 thược. Một
hộc tính ra 71 lít, 905, đem cân nặng cỡ một tạ.
Một vuông chia ra 13 thăng (phân nửa của hộc) tính ra nhằm 35 lít, 953.