trang bị mã tấu và chó săn, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi và trở
thành tay sai đắc lực cho bọn chúa ngục.
Lực lượng rờsẹc được chia làm hai toán: Toán nằm bãi và Toán Chỉ Tồn.
Toán Chỉ Tồn chia nhau theo dõi các kíp tù khổ sai của Sở Chỉ Tồn, phát
hiện các âm mưu vượt ngục và tổ chức săn duỗi, truy tìm khi có tin báo tù
trốn. Toán nằm bãi rải ra canh gác tất cả các bãi biển ở Côn Đảo. Chúng
theo dõi từng dấu chân trên cát, từng loại cây gỗ nhẹ trên rừng mà tù nhân
thường chặt đóng bè, phát hiện được dấu hiệu tù trốn là lập tức phi báo về
trụ sở.
Những người tù vượt ngục không may rơi vào tay bọn này là bị chúng
đánh đập hết sức dã man. Chính tên chủ sở đến chỉ huy cuộc tra tấn, khai
thác cách tổ chức vượt ngục, nơi mua bán, cất giữ các dụng cụ vượt đảo và
những người có liên quan. Sau khi đã hành hạ người tù nhiều lần đến chết
đi sống lại, chủ Sở rờsẹc mới cho trả họ về banh để xếp banh và chúa ngục
đày đọa họ vào các “địa ngục” Hầm đá, Hầm xay lúa và Sở Củi - chuồng
bò. Nhưng ngay cả cái chết và những hình phạt man rợ nhất cũng không
ngăn dược các cuộc vượt đảo cửa tù nhân.
Theo báo cáo của Thanh tra thuộc địa, từ năm 1930 đến năm 1935 đã có
3.664 lượt tù Côn Đảo vượt ngục. Hơn 3.000 người bị bắt lại và chịu những
hình phạt khắc nghiệt nhất, còn 444 người đã thoát được ra biển. Chắc chắn
rằng trong hơn 400 người thoát được ra biển ấy đã có nhiều người bị chết
chìm trong biển cả, chỉ có một số ít do may mắn mà về được đến đất liền.
Một vài tốp tù thường phạm đã phải quay trở lại vì bị nhiều đàn cá mập săn
đuổi quanh bè.
Mùa gió chướng năm 1930, biết người tù yêu nước Bửu Đình đang tìm
cách vượt ngục, Quản đốc Buviê cho đày Bửu Đình ra Hòn Tre. Một thân
một mình với hai bàn tay trắng trên một hòn đảo chỉ có cây và đá, thế mà
Bửu Đình cũng về được đến đất liền. Trước khi về còn để lại 4 câu thơ
châm biếm gửi chúa đảo Buviê
. Một năm sau thực dân Pháp bắt được Bửu
Đình và lại đày ra Côn Đảo. Buviê đày Bửu Đình một lần nữa ra Hòn Tre.