khổ và bị áp bức bóc lột nặng nề làm cho giai cấp công nhân Mỹ sớm giác
ngộ đấu tranh. Ngay từ năm 1786, công nhân in ở Philađenphi đã bãi công
đòi tiền công tối thiểu hàng tuần. Năm 1799, công nhân đóng giầy bãi công
chống việc giảm lương. Việc đình công đấu tranh chống chủ tư bản trở
thành hiện tượng phổ biến, từ năm 1833-1837 ở Mỹ có tới 168 cuộc bãi
công, đạt quy mô thành phố.
Phong trào đấu tranh của công nhân đã dẫn tới sự thành lập các công
đoàn bảo vệ quyền lợi và chỉ đạo đấu tranh. Tổ chức liên minh công nhân
viên toàn quốc xuất hiện năm 1834. Các công đoàn, hội công nhân các
ngành đường sắt, in… đều xuất hiện trong thời kỳ này.
Tháng 6-1852, tổ chức mác-xít đầu tiên “Đồng minh những người
cộng sản” thành lập ở Niu Oóc. Cuốn “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
của Mác-Ăngghen đã đến tay những người công nhân Mỹ. Hoạt động của
phong trào công nhân Mỹ sôi nổi hẳn lên. “Hội liên hiệp công nhân Mỹ” và
“Câu lạc bộ cộng sản” thành lập ở Niu Oóc (1851), Câu lạc bộ cộng sản đã
tuyên bố mục đích của họ là thực hiện nước cộng hòa thế giới.
3. Sự phát triển kinh tế nông nghiệp và “con đường kiểu Mỹ”
Nước Mỹ bước vào thời kỳ phát triển với đặc trưng nông nghiệp là ở
miền Bắc và Tây Bắc, nền kinh tế trại chủ nhỏ chiếm ưu thế, sản xuất phục
vụ thị trường công nghiệp. Nhưng ở miền Nam, nền nông nghiệp nằm trong
tay các chủ đồn điền lớn dựa trên sự bóc lột nô lệ da đen.
Từ sau cách mạng, phong trào di cư rộng lớn đã biến vùng Tây Bắc
thành khu chăn nuôi cừu, lợn và sản xuất lúa mì. Từ năm 1840-1860, chỉ
trong vòng 20 năm, việc sản xuất lương thực ở các bang Tây Bắc tăng gấp
3 lần. Ngành chăn nuôi do đó phát triển mạnh đặc biệt là lợn và cừu. Sicagô
thành nơi tập trung nhiều lò mổ thịt lợn, ướp để xuất khẩu và là trung tâm
bán lúa mì của Mỹ.
Từ năm 1820, những di dân nông nghiệp được mua những mảnh đất từ
80 acrơ đến 160 acrơ. Họ được vay vốn kinh doanh đến khi đạo luật cư trú