Đến thế kỷ XVIII, trong khi nước Anh tiến mạnh trên con đường công
nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa thì Pháp vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc
hậu. 22 triệu người (90% dân số) sống bằng nghề nông. Công cụ và phương
thức canh tác rất lạc hậu, một phần ba đất đai bị bỏ hoang, năng suất hàng
năm rất thấp. Tình trạng sút kém đó là kết quả tất nhiên của sự duy trì chế
độ phong kiến, một chế độ ăn sâu vào nông thôn nước Pháp và ngày càng
trở nên lỗi thời, phản động.
Quan hệ ruộng đất phong kiến chiếm địa vị thống trị trong nông thôn.
Về danh nghĩa, đất đai trong toàn quốc thuộc quyền sở hữu của vua. Nhà
vua lấy ruộng đất đó phong cấp cho quần thần. Theo bậc thang của hệ
thống phong kiến, ruộng đất được chuyển lần lượt sang tay các quý tộc.
Mỗi quý tộc được quyền sở hữu đất đai rộng lớn, có khi cả một vùng. Nhà
thờ cũng chiếm một phần ruộng đất đáng kể.
Những đất đai đó được sử dụng theo hai hình thức. Thường thường,
chúa phong kiến giữ lấy một phần nhỏ làm lãnh địa. Lãnh địa được chia
thành những mảnh nhỏ, phát canh cho nông dân để thu tô theo chế độ phân
đôi sản phẩm hay thu một số tô cố định. Những bản khế ước lĩnh canh
thường quy định thời hạn cho phép người tá điền sử dụng từ 1 đến 3 năm,
có khi 5 năm, nghĩa là ba lần luân canh ba khoảnh, cũng có khi dài hơn
nữa. Sau khi hết thời gian đã quy định, mảnh đất được trả về cho lãnh chúa.
Ngoài lãnh địa, phần lớn đất đai được canh tác theo chế độ vĩnh điền nông
nô. Đó là hình thức cơ bản của chế độ sử dụng ruộng đất ở Pháp hồi thế kỷ
XVII-XVIII. Gần một nửa đất đai (thay đổi tùy theo từng tỉnh từ 30%-60%)
được trao cho nông dân theo kiểu này. Nông dân lao động trên mảnh đất đó
nhưng không có quyền sở hữu, phải nạp cho lãnh chúa một thứ thuế “xăng”
(cens) nhất định. Khác với người tá điền, những người nông dân vĩnh điền
này không phải trả lại ruộng đất cho lãnh chúa. Nếu họ vẫn đóng thuế đều
thì có thể chắc chắn rằng mảnh đất đó vĩnh viễn ở trong tay họ và đời con
cháu họ. Nhưng mỗi khi chết đi, con cháu họ phải nạp thuế kế thừa để tiếp
tục canh tác trên mảnh đất đó.