chúa. Họ còn phải nộp tiền qua cầu, đi đường, qua đò, câu cá, giết trâu
bò… Họ sẽ bị phạt nếu để ếch nhái ở ao mình kêu ầm lên ban đêm, làm cho
lãnh chúa không ngủ được. Điều cực kỳ vô lý là những thứ thuế trên tồn tại
từ lâu đời, cho nên dù rằng cối xay đã hỏng, cầu đã gãy không thể dùng
được, nông dân vẫn phải nộp thuế. Lãnh chúa có quyền đi săn bắn băng qua
những cánh đồng lúa mì của nông dân mà không phải bồi thường gì. Cái
gọi là quyền tư pháp của lãnh chúa nhiều đến nỗi một luật gia phải dùng
600 trang giấy để thống kê.
Ngoài việc nộp thuế cho lãnh chúa, nông dân còn phải nộp các thứ
thuế cho nhà nước như thuế thân, thuế lợi tức, thuế tài sản. Thuế muối và
thuế rượu là hai thứ thuế nặng nhất.
Nhà nước không trực tiếp thu thuế mà giao cho chủ thầu. Chủ thầu sau
khi nộp tiền vào ngân quỹ sẽ dùng bọn tay chân có lính đi kèm kéo vào các
làng để thu thuế. Tất nhiên lối thu thuế như vậy chảng khác gì cướp bóc, vơ
vét của cải của nông dân.
Nông dân còn phải nộp cho nhà thờ thuế một phần mười (tức là 1/10
số thu hoạch) và nhiều thứ tiền khác như tiền rửa tội, tiền đi lễ là những thứ
lễ nghi không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của họ.
Ngoài các thứ tô thuế nộp bằng tiền hay sản vật, nông dân còn phải
chịu nhiều thứ lao dịch khác cho lãnh chúa và cho nhà nước: đắp đường,
xây cầu, vận tải, đài thọ cho binh lính… Kết quả là biết bao gia đình làm
không đủ ăn, khổ cực vất vả và cuối cùng bị phá sản, phải rời bỏ ruộng đất,
quê hương đi kiếm ăn khắp chốn. Chính vì thế mà họ căm thù chế độ phong
kiến, nhiều lần nổi dậy đấu tranh và trờ thành động lực chủ yếu của cuộc
cách mạng tư sản.
Tầng lớp thấp nhất ở các thành phố trong đẳng cấp thứ ba là bình dân
thành thị bao gồm công nhân, thợ thủ công, những người bán hàng vặt,
người hát rong, những người thất nghiệp hoặc sống bằng những nghề tạm
bợ… Họ chen chúc trong những vùng ngoại ô thành phố, bị khinh miệt về
sự nghèo đói và không có quyền chính trị.