Tự mà "phương" là phương hướng, đã được xây từ năm Tenpyô (729-
749) đời tăng Gyôki (Hành Cơ, 668-749). Nơi đây, đến đời Muusô,
ông đã cho dựng vườn cảnh nhiều hoa cỏ, rêu phong nên còn có tên là
Kokedera (Đài Tự) hay chùa rêu.
- Tháp đầu hay Tatchuu nếu đọc theo âm đặc biệt của đời
Đường. Từ ngữ Phật giáo này được dùng để chỉ ngôi chùa nhỏ nằm
trong khuôn viên một ngôi chùa lớn. Nó còn dùng để gọi nơi trú ngụ
của các tăng sĩ (tăng phường) bên cạnh cái tháp chôn di hài thầy họ
nằm trong khu vực chùa để tưởng nhớ ông ta, người thường là một cao
tăng từng đứng ra lãnh đạo chùa.
- Nếu ở Âu Châu trung cổ có nghĩa là thời kỳ từ thế kỷ thứ 4
(khi tộc German di chuyển địa bàn hoạt động) đến cuối thế kỷ 15 (kết
thúc cuộc chiến tranh trên 100 năm giữa Anh và Pháp) thì theo quan
niệm Nhật Bản, trung cổ là giai đoạn cuối thế kỷ 12 (Mạc phủ
Kamakura thành hình) đến cuối thế kỷ 16 (Mạc phủ Muromachi diệt
vong)
- Phương = kata, ở đây có nghĩa là "sở", "nhóm".
- Tăng lục (Sôroku): chức sắc quản hạt các chùa thiền từ ngũ
sơn, thập sát đến chư sơn. Người đầu tiên được bổ vào chức ấy là
Shunnoku Myôha, về sau dành cho các viện chủ kế tiếp của Lộc Uyển
Viện (Rokuon.in) chùa Tướng Quốc (Shôkokuji) vì đây là đạo tràng tu
thiền của Shôgun Yoshimitsu.. Từ năm 1619 trở đi thì chức đó vào tay
các viện chủ của Kim Địa Viện (Konchiin) chùa Nam Thiền Tự
(Nanzenji).
- Công phương = kubô, xưa để chỉ thiên hoàng, triều đình hay
mạc phủ. Đến đời Edo nó được dùng để nói về Shôgun.
- Lâm hạ = ringe. Tiếng chỉ chung thiền môn. Còn có nghĩa là
các chùa lớn nhưng ở địa phương chứ không thuộc vùng Kyôto hay
Kamakura.
- Một bằng chứng "phép vua thua lệ làng". Nếu theo chế độ
nhà nước mà mời người thập phương đến trụ trì thì đường lối của nhà