LỊCH SỬ THIỀN TÔNG NHẬT BẢN - Trang 130

[24]

- Xin đón xem Hán Thi Thiền Tăng Nhật Bản, một biên dịch

khác của Nguyễn Nam Trân.

[25]

- Khi chết đi, Sugawara no Michizane được thờ ở đền Kitano

Tenmanguu (Bắc Dã Thiên Mãn Cung) ở Kyôto như một bồ tát hóa
thân nên Bắc Dã Thần Quân là nói về ông vậy.

[26]

- "Chử" nghĩa cây dó dùng làm giấy. "Khắc chử" ý nói một

cách bóng bẩy sự viết lách.

[27]

- Cũng cần biết thêm là họ Tsushima và phiên Satsuma đã

đóng một vai trò tích cực trong chính trường trước thời Minh Trị Duy
Tân.

[28]

- Đỉnh tướng (Chinsô): Chin là cách đọc đặc biệt theo âm đời

Đường. Chữ dùng để chỉ loại tranh truyền thần vẽ các đại sư Thiền,
kèm thêm bài tán của các vị ấy, thường do thầy ban cho học trò như
bằng chứng của sự truyền thừa pháp tự.

[29]

- Hội họa như một tài nghệ thứ yếu của khách văn nhân,

không chú trọng về kỹ xảo nhưng về cá tính và sự phong nhã. Tuy đã
có mặt từ xưa ở Trung Quốc nhưng chỉ hoàn thành vào thời Minh mạt
với họa phái chú trọng về tranh sơn thủy gọi là Nam Tông của nhóm
Đổng Kỳ Xương.

[30]

- Họa phái Kanô (Kanô-ha) bắt đầu với Kanô Masanobu. Họ

nổi tiếng suốt giai đoạn Muromachi hậu kỳ cho đến suốt thời Edo.
Họa phong được giai cấp quân nhân đặc biệt tán thưởng.

[31]

- Mặc tích (bokuseki): dấu vết mực viết bằng bút lông trên

giấy hay vải. Còn gọi là thư tích hay bút tích nhưng mặc tích là chữ
dùng chính xác hơn cả để chỉ "nét chữ của thiền tăng".

[32]

- Văn hóa Kitayama là văn hóa thời Muromachi sơ kỳ, khi

các shôgun Yoshimitsu và Yoshimochi tại chức. Yoshimitsu có biệt
thự trên Kitayama, một dãy núi phía bắc Kyôto.

[33]

- Tôcha (đấu trà): tranh đua với nhau xem ai biết phân biệt

hương vị và phẩm chất của trà (trà thật trà giả, trà ngon trà dở) một
cách chính xác.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.