Shikibu (Tử, Thức Bộ, thế kỷ 10-11), tập tùy bút "Ghi nhanh bên gối"
(Makura no Sôshi (Chẩm Thảo Tử, khoảng năm 1000) của bà Sei
Shônagon (Thanh, Thiếu Nạp Ngôn, thế kỷ 10-11) xuất hiện lúc đó là
những tác phẩm văn học vô cùng quan trọng.
Đối với giới quí tộc thời Heian, việc cầu đảo khấn nguyện thần
thánh (kajikitô =gia trì kỳ đảo) được coi trọng, ngay trong giáo phái
Tendai, tỷ lệ của ảnh hưởng của Mật Giáo
càng ngày càng lớn. Lại
nữa, trong một thời đại nhiều tai ách và đầy dẫy vấn đề trị an như thế,
tư tưởng mạt pháp (tận thế), trọng tâm của Tịnh Độ Tông, cũng được
truyền bá rộng rãi. Điều đó giải thích sự xuất hiện của các tác phẩm
nói về sự cứu rỗi và kiếp sống an lành ở cõi Tây Phương trong một đời
sau như Ôjô Yôshuu (Vãng Sinh Yếu Tập, 985) của tăng Genshin và
"Ghi chép những câu chuyện vãng sinh về Tây Phương ở Nhật"
(Nihon Ôjô Gokurakuki = Nhật Bản Vãng Sinh Cực Lạc Ký, cuối thế
kỷ thứ 10) của văn nhân Yoshishige Yasutane (Khánh Từ Bảo Dận, ? -
1002). Thế nhưng sau khi nhà Tống tái thống nhất Trung Quốc (năm
960), hai tăng sĩ Nhật Bản là Chônen (Điệu Nhiên) và Jôjin (Thành
Tầm, 1011-81) đã nhập Tống, sự giao lưu giữa hai nước bắt đầu rộn
rịp trở lại. Rồi nhân đó, những hiểu biết mới và cách nhìn mới về đạo
Phật đã được truyền từ Trung Quốc sang.
Quyền thi hành chính trị kiểu sekkan (đã nói ở trên) của dòng họ
đại quí tộc Fujiwara đi đến chỗ cáo chung dưới triều Thiên hoàng Go-
Sanjô (Hậu Tam Điều, thứ 71, trị vì 1068-1072). Sau đó là thời "viện
chính" (insei)
tức là chế độ chính trị của các cựu hoàng trên danh
nghĩa đã nhường ngôi cho người khác những vẫn lập một "chính phủ
riêng" (viện sảnh), đứng đằng sau giật giây. Sau thời cựu hoàng
Shirakawa (Bạch Hà, thứ 72, trị vì 1072-86, viện chính 1086-1129) là
các viện chính liên tục của cựu hoàng Toba (Điểu Vũ, thứ 74, viện
chính 1129-1156 ), Go-Shirakawa (Hậu-Bạch Hà, thứ 77, viện chính
1158-92). Chế độ viện chính đã dựa trên các giai cấp quí tộc hạng
trung trở xuống và giới "võ sĩ" (samurai) tân hưng như hai họ