và Maigan Dôkaku (Hối Nham Đạo Quách, 1798-1872, tông Lâm Tế)
hoạt động. Tư tưởng của họ ngoài ý thức hộ quốc và chống đối đạo
Ki-Tô, còn được tạo thành bởi một yếu tố lớn là tinh thần hộ pháp
đứng trước những luận điệu bài Phật.
*Motsugen Fusen (Vật Ngoại, Bất Thiên, 1785-1867)
Một thiền sư của thời Duy Tân.
Tông học phát đạt
Trong giai đoạn này, các tông phái Phật giáo khác cũng có nhiều
tăng sĩ học vấn giỏi giang xuất hiện. Ví dụ Phượng Đàm Tăng Tuấn
(1659-1738, tông Hoa Nghiêm), Phổ Tịch Đức Môn (1707-1781, tông
Tịnh Độ), Từ Vân Ẩm Quang (1718-1804, tông Chân Ngôn). Giáo
đoàn Thiền Tông về mặt đó cũng không hề thua kém. Phía tông Lâm
Tế có các tăng sĩ như Đại Tâm Nghĩa Thống (1657-1730, thuộc phái
chùa Daitokuji tức Đại Đức Tự) là người đã soạn Chính Đăng Thế Phổ
hay Giang Nam Nghĩa Đế (năm sinh và mất không rõ, cũng thuộc
Daitokuji) tác giả của Thiền Tịch Chí (1716) vv...Kế tiếp họ là Vô
Trước Đạo Trung (Mujaku Dôchuu, 1653-1744, người phái Myôshinji
tức Diệu Tâm Tự).
Mujaku (Vô Trước) là nhân vật tiêu biểu của những nhà tu hành
học vấn uyên thâm của Thiền Tông dưới thời Edo. Họ đã lập ra được
phương pháp nghiêm túc để nghiên cứu văn bản và đã hiệu đính được
nhiều kinh sách cũng như để lại đời sau một số lượng trước tác lớn
lao. Lãnh vực họ quan tâm đến không chỉ ngừng lại trong địa hạt của
Thiền Tông nhưng bao gồm cả Phật học nói chung, quốc học, Trung
Quốc học, văn học chữ Hán nữa. Trong số đó có nhiều nghiên cứu liên
quan đến Thiền Tông mà cho đến ngày nay, giá trị của chúng vẫn
không hề suy suyển, thường được sao đi chép lại để sử dụng.
Về sau, từ tông Lâm Tế lại có Quế Châu Đạo Luân (1714-1794,
phái Gozan tức Ngũ Sơn), Cao Phong Đông Tuấn (1714-1779, cũng
thuộc phái Gozan)...xuất hiện. Họ đều chịu ảnh hưởng phương pháp
khảo chứng học của Mujaku trong việc nghiên cứu.
*Thiền sư Mujaku Dôchuu (Vô Trước Đạo Trung)