Đại Thừa Thiền mà độc giả là tầng lớp đại chúng, ra đời năm 1924 và
còn được tiếp tục phát hành mãi đến bây giờ.
Một khi đã có sự tiến triển trong học vấn, sẽ không thể tránh
những vấn đề đẻ ra từ sự khác biệt giữa tông học xưa nay vẫn theo lề
lối cũ và nặng màu sắc tín ngưỡng, và học vấn sử dụng phương pháp
luận du nhập từ phương Tây. Do đó, trong giới Phật giáo, chủ yếu là
tông Tào Động, mọi người đổ xô tìm hiểu xem nên dùng phương pháp
luận nào cho việc nghiên cứu tư tưởng. Tuy cuối đời Meiji đã có tác
phẩm Phê Phán Giải Thích Thiền Học Tân Luận (1907) của thiền sư
Nukariya Kaiten (Hốt Hoạt Cốc) nhưng thời này lại có thêm "Phương
pháp và tư liệu cơ sở để nghiên cứu Thiền học" (1918) của Okada
Gihô (Cương Điền Nghi Pháp, 1882-1961), "Nhân bàn về việc nghiên
cứu Phật giáo trên quan điểm tôn giáo học" đăng trong Niên báo của
Phật Giáo Học Hội vào tháng 2/1930) của Etô Sokuô (Vệ Đằng, Tức
Ứng, 1888-1958) nữa. Theo ý kiến của họ, những công trình nghiên
cứu về Phật giáo từ đó đã sử dụng các kiến thức của sử học, đạo đức
học, tâm lý học, triết học và tôn giáo học. Điều này cho ta thấy giới
nghiên cứu Phật giáo như đã đáp lời kêu gọi của những nhà trí thức có
quan tâm đến Thiền học mà đại biểu làNishida Kitarô và Suzuki
Daisetsu.
Thế nhưng việc tu hành dựa lên những kiến thức học vấn như thế,
có thể giúp cho người đi tu tìm được sự giác ngộ như lối tu có xưa nay
hay không? Đó vẫn còn nghi vấn rất lớn. Giữa một học giả như
Nukariya Kaiten (Hốt Hoạt Cốc, Khoái Thiên) và một nhà thực hành
như Harada Sogaku (Nguyên Điền, Tổ Nhạc, 1871-1961) đã có những
điều không đồng ý. Đó là nguyên nhân khiến cho khi Nukariya mất,
phái Tào Động chia thành hai phe và tranh cãi với nhau trong nhiều
năm (cuộc tranh luận "tin thế nào cho đúng" hay Chính Tín Luận
Tranh, 1928-1934).
Vì là người cùng chung giáo đoàn, Okada và Etô muốn đứng ra
để hòa giải hai cách nhìn đối lập đó nhưng việc đã làm cho sự quan
tâm đến tư tưởng Thiền trở thành cao trào không do hai ông mà do học