Đạt Ma Tông. Họ xem mình mới là dòng chính và môn phái của
Tôzan Kakuan chỉ là bàng hệ.
Thiền của Eisai là lối tu ghép 3 thứ (tam tông kiêm tu: Thiên Thai
Mật Giáo Thiền). Ông dùng chùa Kennin - một biệt viện của Hieizan -
làm đạo trường (từ lúc đầu đã có Chỉ Quán Viện và Chân Ngôn Viện)
cho nên không thể nói là ông hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của cựu
Phật Giáo. Rõ ràng lý do của việc "tu ghép" đó là ông ngại sự chống
đối của thế lực truyền thống, chủ yếu đến từ các chùa trên ngọn
Hieizan. Mặt khác, bản thân ông vốn mang tư tưởng Mật Giáo, có kiến
thức sâu sắc về nó, lại liên hệ gần gũi với giáo phái ấy. Do đó ta có thể
suy ra rằng ông đã truyền bá Thiền Tông trong khuôn khổ lý luận "tứ
chủng tương thừa" của phái Tendai (Thiên Thai Nhật Bản). Lối suy
nghĩ dung hợp ấy ông sau sẽ được tiếp nối bởi hai đệ tử là Gyôyuu
(Hành Dũng) và Eichô (Vinh Triều) cũng như môn hạ của họ là
Kakushin (Giác Tâm) và Enni (Viên Nhĩ).
*Sự phát triển của Thiền theo lối "tu ghép" (kiêm tu)
Về phần tăng Kakushin, ông nhập Tống vào năm 1249, nhận
pháp tự của Vô Môn Huệ Khai (1183-1260), khi về nước, khai sơn
chùa Saihôji (Tây Phương Tự, sau đổi tên thành Kôkokuji = Hưng
Quốc Tự). Ông định cư ở vùng Yura (tức Kii nay thuộc tỉnh
Wakayama) và ra sức truyền đạo, đào tạo được nhiều nhân tài (phái
Hottô = Pháp Đăng) trong đó có Kohô Kakumyô (Cô Phong Giác
Minh, 1271-1361).
Enni thì khi ở Tống nhận pháp tự của Vô Chuẩn Sư Phạm (1177-
1249). Về nước, được đại thần Kujô Michiie
qui y và mời khai sơn
chùa Tôfuku (Đông Phúc Tự, đại bản sơn của tông Lâm Tế phái Đông
Phúc). Michiie rất kính trọng Enni cho nên cấm tất cả những người
nào không thuộc pháp hệ Shôichi-ha (Thánh Nhất phái) của ông được
phép trụ trì ở đấy. Do đó chùa Tôfuku trở thành chùa của riêng một
phái Shôichi, như là một "nhất lưu tương thừa sát" (hay Tsuchien = Đồ
đệ viện).