đã theo học Thiên Thai, Chân Ngôn và Luật, đã sang Trung Quốc,
tham Thiền ở các chùa trên Đậu Sơn và Kính Sơn. Về nước năm 1211,
lúc đầu Shunjô (Tuấn Nhưng) đến tu với Eisai ở Kenninji thế nhưng
sau dời ra Sennyuuji (Tuyền Dũng Tự, 1224), mở đạo trường "tứ tông
kiêm học" Thiên Thai, Chân Ngôn, Luật và Thiền.
Ngày nay, lối tu này thường được gọi là "kiêm tu Thiền" hay
Thiền tu ghép với các giáo lý khác, phân biệt với "thuần Thiền" tức
Thiền thuần túy. Thế nhưng, nếu ta để ý rằng ở vùng Kyôto, nơi mà
thế lực của các nhà tu núi Hieizan rất mạnh, mãi về sau vẫn còn có
những lúc họ bài xích Thiền Tông, mới thấy lối "kiêm tu" đương thời
đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nó là phương tiện để có thể
du nhập Thiền vào đất Nhật dễ dàng hơn.
Trên thực tế, hai tăng Shinkuu (Chân Không, 1204-68) và Enshô
(Viên Chiếu, 1221-1277) của Tam Luận Tông ở Tôdaiji, cũng như
tăng Jômyô (Tịnh Minh, năm sinh năm mất không rõ) của Thiên Thai
Tông đã đến học Thiền với Tôfuku Enni. Ta cũng có thể thấy ảnh
hưởng của tư tưởng Thiền Tông trong các trước tác như Shinjin
Yôketsu (Chân Tâm Yếu Quyết) của tăng Ryôhen (Lương Biến, 1194-
1252), người có quen biết với Enni, hoặc trong Kankôruijuu (Hán
Quang Loại Tụ), sách nghị luận tiêu biểu của "tư tưởng Thiên Thai
bản giác"
. Ngoài ra, cũng nên chú ý đến một điều là trong hệ tư
tưởng tông Kegon (Hoa Nghiêm), lập luận "Giáo Thiền nhất trí" của
Khuê Phong Tông Mật (780-841) và Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975)
cũng được đem vào. Ví dụ như đệ tử của Kôben (Cao Biện , tức Minh
Huệ = Myôe, 1173-1232) là Shôjô (Chứng Định, 1194-1255?) đã viết
Zenshuu Kômoku (Thiền Chủng Cương Mục) để cổ xúy rầm rộ cho tư
tưởng này. Qua đó, ta có thể hiểu rằng có một khuynh hướng của
những người thuộc phái Kegon (Hoa Nghiêm)
tưởng của họ với tư tưởng Thiền Tông (đời Tống) mới đến.
Sau khi "thuần Thiền" tức Thiền thuần túy được du nhập vào, ở
các tự viện, màu sắc "kiêm tu Thiền" tức Thiền "tu ghép", "tu song