Trong bọn họ, không ít người đã chịu ảnh hưởng của chi lưu Mật
Am Hàm Kiệt (1118-86) phái Dương Kỳ tông Lâm Tế cũng như đi
theo hai phái Tùng Nguyên và Phá Am nghĩa là những môn phái quan
trọng phản ánh được tình hình của tùng lâm Trung Quốc thời bấy giờ
. Đặc biệt Ngột Am Phổ Ninh, Vô Học Tổ Nguyên, thầy của
Tôfuku Enni (Nhật) là Vô Chuẩn Sư Phạm , thầy của Nanpo Jômin
(Nhật) là Hư Đường Trí Ngu (1185-1269), thầy của Gida Daichi
(Nhật), Trúc Tiên Phạm Tiên (Trung), Jakushitsu Genkô (Nhật),
Getsurin Dôkô (Nhật), Kaô Sônen (Nhật), Betsugen Enshi (Nhật),
Chuugan Engetsu (Nhật) là Cổ Lâm Thanh Mậu (1262-1329), cũng
như thầy của Kohô Kakumyô (Nhật), Enkei Soô (Nhật), Kaô Sônen
(Nhật), Jakushitsu Genkô (Nhật) là Trung Phong Minh Bản (1263-
1323) ...đều là những bậc danh sư trong thiền giới Trung Quốc giai
đoạn Nam Tống-Nguyên. Tuy vì cá tính nên sự suy nghĩ của họ có
khác nhau chút ít, chứ thực ra tư tưởng căn bản mà họ chia sẻ vẫn nằm
trong phạm trù của "thiền công án" (kôanzen) đã được khẳng định và
củng cố với Viên Ngộ Khắc Cần (1063-1135) và Đại Huệ Tông Cảo
(1089-1163).
*Giao lưu Trung Nhật thời Kamakura và Muromachi.
Chuyện về các thiền tăng hai bên qua lại
Sau khi nhà Tống tái thống nhất Trung Quốc, sự giao thương
Trung Nhật ngày càng phát triển mạnh. Người để ý đến chuyện đó là
quyền thần Taira no Kiyomori (Bình, Thanh Thịnh, 1118-1181) đã
trang bị bến Ôwada no Tomari (nay là cảng Kobe) dùng vào việc
khuếch trương mậu dịch với Nam Tống. Do việc buôn bán với Tống
càng ngày càng phồn thịnh, thuyền Trung Quốc chở vật dụng, thư tịch,
đồ mỹ nghệ cũng như đem hóa tệ nhà Tống qua... ảnh hưởng nhiều
đến cuộc sống của người Nhật. Thêm vào đó, con số thiền tăng vãng
lai càng đông đảo: số tăng Nhật nhập Tống có hơn 80 vị, tăng Tống
sang Nhật có trên 20 vị. Đến đời nhà Nguyên thì tuy có hai cuộc đụng
độ quân sự nhưng việc mậu dịch không vì thế mà bị cấm đoán cho nên