Tettô Gikô (Triệt Ông Nghĩa Hưởng) đã nhắc đến bên trên, còn có
Kanzan Egen (Quan Sơn Huệ Huyền, 1277-1360), người đã khai sơn
Myôshinji (Diệu Tâm Tự)
vv...Trước tác Shuuhô Myôchô để lại có
Đại Đăng Quốc Sư Ngữ Lục, Đại Đăng Quốc Sư Giả Danh (kana)
Pháp Ngữ.
Những ngôi chùa danh tiếng Nhật Bản như Kenchôji, Engakuji
và Nanzenji đều được kiến tạo theo kiểu mẫu Trung Quốc, nghi thức
thì rập đúng khuôn mẫu cung cách của Thiền Tông Nam Tống và
Nguyên. Các tăng Trung Quốc "độ lai" và Nhật Bản "quy triều" đã lập
ra các qui tắc theo Thiền Uyển Thanh Qui và Tùng Lâm Hiệu Định
Thanh Qui Tổng Yếu họ đã học được ở đại lục. Họ còn tổ chức những
nghi lễ tôn giáo kiểu "cúng cô hồn" (segaki = thí ngạ quỷ) vốn rất phổ
biến trong dân gian bên Trung Quốc từ dưới triều Tống. Vào thời điểm
này, Lan Khê Đạo Long (1213-78) đã trước tác Zazengi (Tọa Thiền
Nghi, 1246) và Thanh Chuyết Chính Trừng tức Đại Giám Thiền Sư
soạn Taikan Shingi (Đại Giám Thanh Quy) (1332). Những tác phẩm
đó dù sao cũng rất cần thiết cho cuộc sống ở chốn tùng lâm. Lại nữa, ở
Nhật người ta cũng bắt chước các "quan tự" tức chùa nhà nước ở
Trung Quốc mời người trụ trì từ trong vòng các tăng sĩ thập phương.
Chế độ này nhằm tuyển dụng những tăng sĩ có khả năng thực sự mà
không nề hà đến pháp hệ của họ. Về mặt đào tạo các thiền tăng, chế độ
này đóng một vai trò rất quan trọng.
Nhờ có sự qua lại thường xuyên của các thiền tăng mà những tư
tưởng mới mẻ trong chốn tùng lâm Trung Quốc được truyền ngay
sang Nhật. Ví dụ như tu tưởng "tam giáo nhất trí" có từ đời Tống trở
về sau đã đến Nhật. Phong trào nghiên cứu Chu Tử Học trong tùng
lâm thời Nam Tống cũng gây ảnh hưởng như vậy. Thiền sư Nhật Bản
Chuugan Engetsu (Trung Nham Viên Nguyệt) đã được biết đến như
một đại gia về Chu Tử Học. Không những thế, tư trào văn học nhuốm
màu Thiền của Cổ Lâm Thanh Mậu, tư tưởng "Thiền Tịnh song tu"
đặc sắc và khuynh hướng ẩn dật của Trung Phong Minh Bản đều được