Nhật Bản). Vì được nhiều đời thiên hoàng tôn kính nên người ta goi
ông là Shichidai Teishi (Thất Đại Đế Sư). Ông đã để lại các trước tác
như Muusô Kokushi Goroku (Mộng Song Quốc Sư Ngữ Lục, 1354),
Muusô Mondô-shuu (Mộng Song Vấn Đáp Tập, 1344), Kokukyô-shuu
(Cốc Hưởng Tập, khoảng 1345), các tập tùy bút về tôn giáo như
Seizan Yawa (Tây Sơn Dạ Thoại) và đặc biệt Muuchuu Mondo-shuu
(Mộng Trung Vấn Đáp Tập) mà ông đã soạn ra để giảng đạo cho
Ashikaga Yoshinao. Đấy là tập pháp ngữ tiêu biểu nhất trong loại viết
bằng quốc âm kana và đã được phái Gozan đem ra in lúc ông còn sinh
thời. Nhân vì ông có viết về Jôdo-shuu (Tịnh Độ Tông) trong đó nên
Chi.en (Trí Viễn) của phái Chinzei (Trấn Tây) thuộc Jôdo-shuu đã phê
phán ông qua Muuchuu Shôfuu-ron (Mộng Trung Tùng Phong Luận),
xem như " bàn về tiếng thông reo trong giấc mộng". Còn Kokukyô-
shuu,"tiếng vọng trong hang" nói ở trên không gì khác hơn là lời phản
biện lại lập luận của Chi.en. Tư tưởng Thiền của ông có quan điểm
dung hòa, gói trọn cả Tịnh Độ, Mật Giáo và nhiều ngành nghệ thuật,
là lý do lớn nhất để dễ được các giới quí tộc và vũ sĩ (cũng có tính quí
tộc) của mạc phủ Muromachi tiếp nhận. Nhưng chính ra cũng vì thế
mà những người như tăng Lâm Tế Shuuhô Myôchô (Tông Phong Diệu
Siêu, 1282-1337 tức Đại Đăng Quốc Sư) và Thiên hoàng Kameyama
(Quy Sơn, thứ 90, 1249-1305, trị vì 1259-74, một người thông hiểu
Phật giáo) đánh giá là tư tưởng của ông vẫn còn chưa đạt đến bản lai
của Thiền nghĩa là dứt tuyệt khỏi lý luận.
Việc xây Shôkokuji (Tướng Quốc Tự) và thiết lập ngũ sơn thập
sát
Năm 1382, Shôgun Ashikaga Yoshimitsu nhân có phát nguyện
xây một ngôi thiền tự mới bàn bạc với Shunnoku Myôha (Xuân Ốc
Diệu Ba, 1311-88), Gidô Shuushin (Nghĩa Đường Chu Tín, 1325-88).
Chùa Shôkokuji (Tướng Quốc Tự) được xây lên và hoàn tất vào năm
1392. Đây là nơi mà các shôgun nhà Ashikaga kế tiếp sẽ đến quy y.
Shunnoku nhường cho thầy mình (Muusô Soseki) đến khai sơn, chỉ
nhận làm đời thứ hai. Lúc đầu, chùa đặt ra nguyên tắc mời sư thập