Ungo.an (Thiên Long Tự Vân Cư Am) hay Rinsenji (Lâm Xuyên Tự),
Shunnoku Myôha và Tôkô Kikô (Đông Cương Hy Cảo) đã xuất bản
rất nhiều. Lại nữa, vùng Kamakura cũng có Daiki Hôkin (Đại Hỷ Pháp
Hân, ? -1368) và Isen Hôei (Vĩ Tiên Phương Duệ, 1334-1414) ở
Engakuji Zokutôan (Viên Giác Tự Tục Đăng Am) là những nhà xuất
bản đầy nhiệt tình. Họ là những người đã có công rất lớn trong việc
phổ biến thiền tịch trên toàn quốc. Những văn bản được họ xuất bản
có cái tên chung là Gozanban (Ngũ Sơn bản). Phần lớn người ta dùng
những bản đời Tống và đời Nguyên được đem vào đất Nhật như bản
lót (để bản) cho nên về hình thức chúng rất trung thành với bản gốc
cho nên đều có giá trị tư liệu rất cao.
*Gozanban (Văn bản Ngũ Sơn)
Gozanban là tên để gọi những văn bản các sách vở về Thiền thịnh
hành ở Trung Quốc dưới hai triều Tống, Nguyên và được đem về Nhật
và in lại bởi các tự viện trong hệ thống ngũ sơn Nhật Bản. Văn bản
được in sớm nhất là Thiền Môn Bảo Huấn đã được in ở chùa Kenchôji
(ở Kamakura) vào năm 1287.Sau đó, vào năm 1288, ở chùa Sanshôji
(Tam Thánh Tự) ở Yamashiro (Kyôto), Tôzan Tanshô (Đông Sơn Đam
Chiếu, 1231-91) đã cho in lại Hổ Khâu Long Hòa Thượng Ngữ Lục.
Thế rồi nhà sư Trung Quốc Trức Tiên Phạm Tiên (Chikusen Bonsen,
1292-1348), người đến Nhật năm 1329, đã cho xuất bản tác phẩm
Thập Di Kệ Tụng Tập của thầy mình là Cổ Lâm Thanh Mậu. Đến thời
Muromachi thì Shunnoku Myôha đã lần lượt in nhiều thiền tịch Nhật-
Trung khác. Chủ yếu là Viên Ngộ Tâm Yếu (1341) nói về Viên Ngộ
Khắc Cần, Mộng Trung Vấn Đáp Tập (1344) của Muusô Soseki, Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục (1348), Phụ Giáo Biên (1351), Thiền Nguyên
Chư Thuyên Tập Đô Tự (1358), Bồ Thất Tập (1359), Ngũ Đăng Hội
Nguyên (1368), Phật Giám Thiền Sư Ngữ Lục (tức ngữ lục của Vô
Chuẩn Sư Phạm, 1370), Phật Quang Quốc Sư Ngữ Lục (ngữ lục của
Vô Học Tổ Nguyên, 1370), Tông Kính Lục (1371), Nguyên Hưởng
Thích Thư (1377), Sơ Tổ Tam Luận (Đạt Ma Đại Sư Tam Luận,
1387), Thiếu Thất Lục Môn (thế kỷ 13-14)... Về ngoại điển tức là