dọc biên giới phía Bắc có nhiệm vụ kìm chân tiêu hao giặc, phối hợp với
chiến trưởng chính ở phòng tuyến Như Nguyệt.
Từ diễn biến của toàn cục, có thể nghĩ rằng trong ý đồ chiến lược
phòng ngự của Lý Thường Kiệt, ông đã lường trước với thế mạnh của giặc,
chúng có thể tiến sâu vào nội địa nhằm mục tiêu tiến vào đánh chiếm
Thăng Long. Quyết tâm không cho chúng tới gần kinh đô, Lý Thường Kiệt
đã biến dòng sông Nguyệt Đức (sông Cầu) thành chiến hào án ngữ mặt bắc,
chặn đứng đường tiến về Thăng Long của giặc. Đại quân gồm chính binh
cùng quân địa phương khoảng 5 - 6 vạn do đích thân Lý Thường Kiệt chỉ
huy tại phòng tuyến Như Nguyệt.
Lại một lần nữa, ta thấy việc lợi dụng địa hình tự nhiên kết hợp với
sự xây dựng của con người tạo nên hiểm địa của các nhà quân sự trong
phòng ngự chống giặc đã xuất hiện ở thế kỷ X và bây giờ là thời Lý. Nếu
như ở thế kỷ X là núi non Hoa Lư, là dòng sông Cái với thành Bình Lỗ, thì
ở thế kỷ XI là dòng sông Nguyệt Đức với phòng tuyến Như Nguyệt.
Phát nguyên từ Cao Bằng chảy qua Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc
Giang, Bắc Ninh đổ vào sông Lục Đầu ở Phả Lại, sông Nguyệt Đức như
một chiến hào chặn ngang mọi đường bộ từ Quảng Tây vào Thăng Long.
Khúc cuối dòng sông dài khoảng gần 100 km có đoạn từ ngã ba sông Cà Lồ
- sông Cầu về xuôi đi lại dễ dàng gọi là sông Như Nguyệt. Sông Như
Nguyệt có bến đò Nguyệt, bến đò Thị Cầu dẫn theo đường bộ về Thăng
Long dài khoảng 20 và 30 km. Lợi dụng địa thế lợi hại của dòng sông, Lý
Thường Kiệt lập phòng tuyến bên hữu ngạn, bờ nam sông Như Nguyệt.
Sông chưa có đê, sau chiến thắng mới "đắp đê ở sông Như Nguyệt dài
67.380 bộ"
76
. Bên tả ngạn sông có dãy núi Nham Biền, có chỗ chân núi lan
ra mặt nước, có rừng cây um tùm tạo nên thế hiểm trở của dòng sông, thuận
lợi cho việc lập phòng tuyến.
Phòng tuyến Như Nguyệt là sự kết hợp giữa dòng sông và chiến lũy
đắp bằng đất dọc bờ sông được gia cố thêm bằng nhiều tầng hào, dậu, cọc
tre dày đặc và hố chông. Quân lính bộ do Lý Thường Kiệt chỉ huy khoảng