mã, cung phi chiêu tập dân nghèo không có đất làm nô tỳ, đi khai hoang
ven biển, lập các điền trang.
Buổi đầu thời Trần, bên cạnh ruộng đất làng xã và ruộng đất phong
kiến của quý tộc thuộc sở hữu nhà nước, bộ phận ruộng đất tư hữu đã phát
triển mạnh mẽ. Năm 1237, Trần Thái Tông đã quy định thể lệ chúc thư, văn
khế ruộng đất và cho vay tiền. Năm 1254, Trần Thái Tông cho phép bán
quan điền, tức ruộng công, cho dân mua làm ruộng tư, cứ mỗi “diện" (mẫu)
giá 5 quan. Chế độ thuế khóa quy định trên cơ sở chế độ sở hữu ruộng đất.
Dưới thời Trần, các nghề thủ công trong nước có điều kiện phát
triển. Đó là những nghề truyền thống như dệt vải, lụa, làm gốm sứ, luyện
kim, mỹ nghệ, chạm khắc, đúc đồng, nghề rèn sắt, v.v..Trong nông thôn Đại
Việt xuất hiện những làng thủ công chuyên sản xuất những sản phẩm
truyền thống của mình. Kinh thành Thăng Long có 61 phường, mỗi phường
làm một nghề thủ công như phường Tàng Kiếm nổi tiếng làm áo giáp, binh
khí, kiệu và các đồ nghi trượng; phố xá buôn bán các sản phẩm ngày một
sầm uất. Nghệ thuật gốm sứ thời Lý - Trần mang đậm bản sắc dân tộc, có
trình độ thẩm mỹ cao và đạt đến đỉnh cao trong lịch sử phát triển của nó.
Nghề khai mỏ và luyện kim, chủ yếu là đồng và sắt đã cung cấp thỏa mãn
nguyên liệu cho các nhà nước đúc tiền, đúc chuông, tượng, các nông cụ
cũng như các loại vũ khí, chiến cụ trang bị cho quân đội.
Nội thương, ngoại thương và giao thông thủy, bộ ở Đại Việt từng
bước mở mang và phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
quân sự, góp phần hạn chế yếu tố phân tán trong xã hội và mở rộng mối
giao lưu với nước ngoài. Nhiều trung tâm thương nghiệp xuất hiện, chợ búa
mọc lên khắp các làng quê. Quan hệ buôn bán giữa Đại Việt với các nước
khác như Trung Quốc, Chiêm Thành, Java (Inđônêxia), Chân Lạp, Xiêm,
Hồi Hột (vùng Tân Cương),v.v. được thực hiện chủ yếu qua thương cảng
Vân Đồn (Quảng Ninh) và một số cửa biển lớn ở miền Trung. Nhà Trần
không hạn chế ngoại thương, nhưng luôn luôn có những biện pháp quản lý