vu hồi đánh Nam Tống.
Hốt Tất Liệt (em Mông Kha) sai sứ sang dụ vua Trần đầu hàng;
nhưng đã bị vua Trần cho tống giam. Triều đình ra lệnh cả nước sắm sửa vũ
khí, khẩn trương chuẩn bị kháng chiến. Vua Trần Thái Tông chia quân
đóng giữ những nơi hiểm yếu và thân chỉ huy 3 vạn quân lên lập chiến
tuyến ở Bình Lệ Nguyên.
Đầu năm 1258, khoảng 3 vạn kỵ binh Mông Cổ vượt biên giới tiến
vào nước ta. Ngày 17-1-1258, chúng tiến xuống Bình Lệ Nguyên.
Sau một trận chiến đấu ác liệt, quân Trần "thất lợi". Theo mưu kế
của Lê Tần (tức Lê Phụ Trần), quân ta rút về Phù Lỗ, phá cầu và lập chiến
tuyến tiếp tục chặn địch. Dựa vào ưu thế binh lực, quân Mông Cổ tiến đánh
rất mạnh, buộc vua Trần phải ra lệnh rút về Thăng Long và sau đó chủ
động rời khỏi Thăng Long về Thiên Mạc (Khoái Châu).
Quân ta rút lui trên các mặt trận và phải rời bỏ cả kinh thành, nhưng
triều đình, tướng sĩ và quân dân vẫn không hề nao núng. Lúc đó, Thái sư
Trần Thủ Độ tâu với vua: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!".
Quân dân ta thực hiện kế "thanh dã" (vườn không, nhà trống) triệt
để, nên mặc dù quân giặc chiếm được Thăng Long nhưng không tìm đâu ra
một bóng người và lương thực. Sau chín ngày đêm, chúng tiến thoái lưỡng
nan phải án binh bất động.
Ngày 29-1-1258, Vua Trần Thái Tông cùng các tướng lĩnh chỉ huy
binh thuyền theo sông Hồng tiến về Thăng Long và lợi dụng đêm tối tập
kích địch ở Đông Bộ Đầu. Bị đánh bất ngờ, quân Mông Cổ đại bại và tháo
chạy; đến trại Quy Hóa, chúng bị Hà Bổng đón đánh. Ngột Lương Hợp
Thai cùng tàn quân chạy về Vân Nam.
Cuộc kháng chiến đã giành được thắng lợi. Sử gọi đó là chiến công
năm Nguyên Phong thứ 7 (1258) hay chiến thắng lần thứ nhất chống Mông
- Nguyên.
b) Cuộc kháng chiến lần thứ hai (năm 1285)