Toản đã tự lập một đội quân gồm hơn một nghìn gia nô và thân thuộc, sắm
vũ khí, đóng thuyền chiến, nóng lòng chờ ngày giết giặc, cứu nước. Lá cờ
của đội quân đó mang sáu chữ "Phá cường địch, báo hoàng ân" (Phá giặc
mạnh, báo ơn vua). Người thiếu niên đó đã anh dũng hy sinh khi chặn đánh
quân địch, không cho chúng vượt sông Cầu về nước trong cuộc kháng
chiến lần thứ hai.
Hai chữ "Sát Thát" (giết giặc Mông Thát) thích trên cánh tay các
tướng lĩnh và binh lính nhà Trần đã nói lên quyết tâm sắt đá của toàn quân
khi được nghe những lời hịch của Trần Quốc Tuấn. Đó là ý chí của toàn
quân và cũng là ý chí của toàn dân. Cả nước một lòng "dĩ thân tuẫn quốc"
(xả thân vì nước) như lời kêu gọi của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Rất nhiều người yêu nước trong nhân dân và quân đội còn khắc lên mình
tám chữ "Nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc" (Vì nghĩa quên thân, báo
đền ơn nước) để chứng tỏ lòng mình đối với giang sơn Tổ quốc.
Để biến quyết tâm kháng chiến của triều đình và của quân đội thành
quyết tâm đánh giặc của toàn dân, tháng 1-1285, Vua Trần Thánh Tông đã
mời đại biểu phụ lão trong cả nước về Kinh đô Thăng Long, đặt tiệc ở điện
Diên Hồng, hỏi kế đánh giặc. Trả lời câu hỏi của nhà vua là nên đánh hay
không, các phụ lão đều đồng thanh hô "Đánh!". Đại Việt sử ký toàn thư
chép rằng bấy giờ "muôn người cùng nói, như từ một miệng". Các bô lão
trở về địa phương mình đã truyền đạt ý chí và quyết tâm đó cho toàn dân.
Tiếng vang của Hội nghị Bình Than, của bài Hịch tướng sĩ, của Hội
nghị Diên Hồng dội vào lòng yêu nước, chí căm thù giặc vốn có trong tâm
tư, tình cảm của từng người, vốn đã gắn bó với triều đình qua các chính
sách tiến bộ có tác dụng khoan thư sức dân đã được ban hành thời đó. Triều
đình lại ra lời hiệu triệu viết lên bảng lớn, treo khắp các nẻo đường đất
nước, được trăm họ khắp nơi hưởng ứng.
Với trạng thái tinh thần như vậy, nhân dân khắp nơi đều đứng lên
liều chết chiến đấu khi giặc đến: trực tiếp đương đầu, gây tổn thất, đẩy lùi
quân xâm lược khi chúng kéo đến làng, như ở Cổ Sở (gần Thăng Long) và