Yên Duyên (Thanh Hóa) làm "thanh dã" (vườn không nhà trống), cất giấu
lương thực không để lọt vào tay quân giặc đang khốn quẫn về tiếp tế lương
thảo, kiên trì bám trụ sau lưng địch, tiến công trên tục vào các đồn, trại địch
ở bất cứ nơi nào chúng đóng quân, cắt các đường giao thông vận chuyển
của chúng, đánh địch ban ngày, chú trọng tiến công chúng ban đêm. Cơ cấu
tổ chức lực lượng vũ trang thời đó thuận lợi cho việc phát triển hoạt động
cả nước đánh giặc nói trên. Khắp nơi, một bộ phận quân triều đình làm
nòng cốt cho quân các lộ, phủ. Quân các lộ, phủ làm nòng cốt cho hương
binh, thổ binh. Hương binh, thổ binh phối hợp với các lực lượng trên làm
nòng cốt cho nhân dân đứng vững, bám trụ địa bàn để thường xuyên tiến
công địch khắp mọi nơi, mọi lúc.
Chính các hoạt động kiên trì đánh giặc của toàn quân, toàn dân ta là
nỗi lo sợ thường xuyên và là tai họa lớn cho quân Nguyên xâm lược.
Trong quá trình kháng chiến, sức mạnh của quân địch đã đưa đến
những tình huống lao đao đối với triều đình và quân, dân ta, nhất là trong
cuộc kháng chiến lần thứ hai. Có kẻ đã hoảng sợ như Trần Nhật Hạo, một
số kẻ hèn nhát đã đầu hàng địch như: Trần Ích Tắc, Trần Kiện, Trần Tú
Hoãn, Trần Văn Lộng, Lê Trắc, v.v.. Nhưng tinh thần quật cường, bất khuất
của triều đình và bách quan, của quân và dân đã được giữ vững và phát
triển mạnh hơn lên qua những bước thử thách hiểm nghèo. Và với tinh thần
đó, quân và dân ta đã kiên trì kháng chiến chống quân xâm lược lớn mạnh,
giành được thắng lợi vẻ vang trong cả ba cuộc kháng chiến.
Trong những thời điểm gay go, nguy ngập của các cuộc kháng
chiến, ý chí kiên định của những nhân vật chủ chốt trong lãnh đạo kháng
chiến đã có tác dụng to lớn đối với việc giữ vững quyết tâm kháng chiến
của triều đình. Đó là trường hợp của Trần Thủ Độ khi ông bàn bạc với vua
Trần trên sông Nhị Hà trong cuộc rút lui chiến lược đầu tiên của triều đình
năm 1258. Ông đã có một câu trả lời đầy khí phách: "Đầu tôi chưa rơi
xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!".