đã làm cho những đạo quân mạnh và thiện chiến của Mông - Nguyên bị sa
lầy, bó tay bất lực, không thi thố được tài năng của chúng. Nhà nước thời
Trần đã có tư duy đúng, đã ý thức khá rõ vai trò, vị trí chiến lược của từng
loại quân nói riêng và của sự kết hợp chiến đấu của các loại quân đó.
b) Gắn nông với binh - "ngụ binh ư nông", xây dựng lực lượng vũ
trang nằm trong dân, gắn sản xuất với sẵn sàng chiến đấu
Kế thừa quan điểm và chính sách xây dựng lực lượng vũ trang đã có
từ thời Tiền Lê và thời Lý, nhà Trần vẫn chủ trương "ngụ binh ư nông".
Ngụ binh ư nông, hiểu vắn tắt là gửi binh ở nông. "Binh" có nghĩa
là binh lính, cũng có nghĩa là việc binh, việc quân sự, việc giữ nước.
"Nông" có nghĩa là nông dân, cũng có thể hiểu là việc nông, nông thôn,
nông nghiệp. Có thể coi đây là một tư tưởng lớn, một chính sách lớn, một
quốc sách quan trọng về xây dựng lực lượng vũ trang trong thời bình,
chuẩn bị cho thời chiến.
Theo chính sách này, khi đất nước vô sự, chưa có sự uy hiếp vì
ngoại xâm thì trừ cấm quân phải thường xuyên túc trực để làm nhiệm vụ
bảo vệ triều đình, còn các loại quân khác như sương quân và quân các lộ
được chia thành nhiều phiên, theo định kỳ, một bộ phận thường trực tại
ngũ, luyện tập và canh phòng, một bộ phận trở về nông thôn sản xuất tự
túc. Thời hạn được quy định theo từng thời kỳ. Khi có chiến tranh, tất cả
trở lại quân ngũ theo khung đơn vị đã định và lệ thuộc vào các tướng.
Nhà Trần chủ trương quản lý nhân đinh trong cả nước để làm cơ sở
tuyển mộ và động viên quân đội. Năm 1242, Trần Thái Tông thực hiện cải
cách hành chính, củng cố hệ thống quan lại địa phương, đặt các chức đại,
tiểu tư xã cùng các xã chính, xã sử, xã giám, gọi chung là xã quan.
Vua ra lệnh làm sổ hộ khẩu, ba năm một lần, phân hạng đinh nam,
dưới 18 tuổi gọi là hoàng nam, trên 18 tuổi gọi là đại nam. Tất cả các hoàng
nam và đại nam đều được ghi tên trong Sổ bìa vàng (Sổ quân), trở thành
nguồn binh của Nhà nước. Nhà nước quy định chế độ binh dịch đối với tất