lúc hòa bình, nhưng lại có một lực lượng hùng hậu, khi chiến tranh xảy ra
có thể nhanh chóng huy động được đông đảo số lượng binh sĩ, triều đình
nhà Trần đã kế thừa và vận dụng thành công chính sách "ngụ binh ư nông".
Cùng với việc xây dựng một ngạch quân nhiều thành phần, nhà Trần đã
thực hiện chính sách "gửi binh ở nông"; chính sách này đã giúp nhà nước
giải quyết hài hòa được cả hai nhân tố chất lượng và số lượng, bảo đảm cân
đối giữa quân thường trực và quân dự bị, khi hòa bình vẫn đủ sức canh
phòng, thời chiến huy động được đông đảo quân đội thực hiện chiến tranh
nhân dân, toàn dân là lính. Thời Trần lúc bình thường như sử gia Phan Huy
Chú nói: "Quân số chưa đầy 10 vạn", nhưng trong kháng chiến chống
Mông - Nguyên đã có lúc triều đình huy động được 20 - 30 vạn quân đánh
giặc. Sử chép, năm 1285, Hưng Đạo Vương vâng mệnh vua điều động dân
binh các lộ Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm, chọn những người dũng cảm làm
tiên phong, vượt biển vào Nam, thế quân đã nổi. Các quân thấy vậy, không
đạo quân nào không tập hợp. Vua Trần Nhân Tông làm thơ đề ở đuôi
thuyền rằng:
Cối kê cơ sự quân tu ký,
Hoan Diễn do tồn thập vạn binh.
(Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ
Hoan Diễn còn kia chục vạn quân)
48
.
Bấy giờ, các vương con của Trần Quốc Tuấn như Hưng Vũ Vương
Trần Quốc Nghiên, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng và Hưng Trí
Vương Trần Quốc Hiện cùng với Minh Hiến Vương Trần Quốc Uất (con út
Trần Thái Tông) đã đốc suất 20 vạn quân các sứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà
Hương, Yên Sinh, Long Nhãn đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển
của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn để chống giặc Nguyên. Đó là kết
quả của tư tưởng, đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhiều thứ quân và
vận dụng chính sách "ngụ binh ư nông" trong quân đội.