lãnh đạn, tướng lĩnh là những yếu tố quyết định. Chính vì thế, vương triều
Trần đã có tư tưởng tích cực, chủ động để giải quyết những yêu cầu này
ngay từ trong thời bình và nhất là trước nguy cơ tiến công xâm lược của kẻ
thù.
Năm 1257, biết tin kỵ binh Mông Cổ sắp tràn qua biên giới, Vua
Trần Thái Tông đã ra lệnh cả nước sắm sửa vũ khí, đóng thuyền chiến và
luyện tập võ nghệ. Năm 1262, Vua Trần Thánh Tông hạ lệnh cho các đạo
quân sắm sửa binh khí, đóng thêm thuyền chiến và tổ chức tập trận ở bãi
phù sa sông Bạch Hạc (Phú Thọ). Năm 1283, khi cuộc kháng chiến chống
Mông - Nguyên lần thứ hai chưa diễn ra, Vua Trần Nhân Tông đích thân
chỉ huy các vương hầu, tướng lĩnh thao diễn chiến trận và lệnh cho Trần
Quốc Tuấn đốc suất các vương hầu, quý tộc cùng dân chúng sắm sửa vũ
khí, đóng chiến thuyền.
Đặc biệt trong thời gian chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến chống
Mông - Nguyên, vua Trần thường giao cho các tướng tổ chức luyện tập
binh sĩ, thao diễn quân đội. Hình thức tập trận lớn, thao diễn quân đội rất
được coi trọng và thường do nhà vua hoặc Quốc công tiết chế đích thân chỉ
huy. Các thân vương được lệnh thống suất quân của mình và quân địa
phương nơi mình trấn trị, sẵn sàng theo lệnh điều động.
Biết trước âm mưu xâm lược của giặc, triều đình nhà Trần đã mở
Hội nghị Bình Than, họp các vương hầu, bách quan để bàn kế sách đánh
phòng. Hội nghị Bình Than có ý nghĩa quân sự - chính trị to lớn, làm cho
chủ trương kháng chiến của triều đình thấu xuống khắp các vương hầu bách
quan, huy động được các lực lượng của tất cả các tầng lớp tham gia kháng
chiến. Sau Hội nghị Bình Than, việc mộ quân và sắm sửa khí giới, chuẩn bị
cho kháng chiến trong toàn quân, toàn dân diễn ra hết sức sôi động trong cả
nước.
Năm 1284, Trần Quốc Tuấn được lệnh điều khiển các vương hầu,
tướng lĩnh mở cuộc duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu (Thăng Long) rồi sau
đó chia quân đi đóng giữ những nơi xung yếu ở phía bắc và đông bắc Tổ