quốc. Tháng Chạp năm ấy, vua ngự ra bến sông ở Hải Đông (Hải Dương),
sai Hưng Đạo Vương tiết chế Đại hội thủy, bộ chư quân ở Vạn Kiếp. Bấy
giờ, binh lính đóng liền một dải ở Vạn Kiếp, thuyền chiến san sát trên sông
Lục Đầu, cờ xí trang nghiêm, gươm giáo sáng lòa, ba quân thật là sung sức.
Ngay sau khi cuộc kháng chiến lần thứ hai vừa thắng lợi, năm 1286, Vua
Trần Nhân Tông đã hạ lệnh cho Trần Quốc Tuấn cùng các vương hầu, tôn
thất và các võ quan "điều động quân lính, chế tạo vũ khí, thuyền bè... kiểm
duyệt, diễn tập quân lính điều động được"
67
. Một năm sau, trước nguy cơ
của một cuộc chiến tranh mới, triều đình nhà Trần đã triệu tập các tướng tổ
chức diễn tập và triển khai lực lượng phòng vệ, chuẩn bị sẵn sàng bước vào
cuộc đọ sức lần thứ ba với giặc Mông - Nguyên.
Những sự kiện trên chứng tỏ, các vua Trần cũng như Trần Quốc
Tuấn và các tướng chỉ huy cao cấp trong quân đội không chỉ lo luyện rèn
võ nghệ cho từng người, mà còn thường xuyên tổ chức tập trận lớn, luyện
cho các tướng sĩ và quân lính quen với chiến trận và địa hình, biết hiệp
đồng chiến đấu giữa các đơn vị, các loại quân; đồng thời cũng để nâng cao
sĩ khí trước khi bước vào cuộc sống mái với quân thù.
Chuẩn bị sẵn sàng ngay từ thời bình, trước khi chiến tranh diễn ra,
đó là tư tưởng chỉ đạo hết sức đúng đắn củacác vua Trần và Trần Quốc
Tuấn, vị thống soái quân đội nhà Trần. Chính nhờ đó mà chất lượng quân
đội nhà Trần ngày một nâng cao và cũng nhờ những biện pháp tích cực đó
mà sự đối phó với giặc cũng được chủ động hơn; đặc biệt trước cuộc kháng
chiến lần thứ ba (1288), Trần Quốc Tuấn đã trả lời vua Trần Nhân Tông
rằng "năm nay đánh giặc nhàn" và toàn thể quân dân Đại Việt đã bước vào
cuộc kháng chiến với một niềm tin tất thắng.
Tư tưởng chủ động chuẩn bị từ thời bình đó vẫn được các vua Trần
kế tiếp vận dụng trong kế sách giữ nước. Năm 1364, Vua Trần Dụ Tông
xuống chiếu chế tạo chiến cụ và thuyền chiến, đề phòng hoạn nạn từ biên
giới phía Nam. Bấy giờ Chiêm Thành thường quấy phá biên giới, nhà vua