mạnh, thì đây cũng là tư tưởng chỉ đạo cách ứng xử, cách đánh về chiến
lược trước những đạo quân hùng mạnh.
Nước ta nhỏ, nước địch lớn; quân ta ít, quân xâm lược đông. Trong
chiến tranh giữ nước, một mặt ta phải tuân theo những quy luật chung của
chiến tranh, nhưng mặt khác, ta cũng phải có quan điểm riêng về cách ứng
xử, cách đánh phù hợp với điều kiện của mình để chiến thắng quân
xâmlược lớn mạnh.
Triều đình nhà Trần đã nhận thức rất rõ hoàn cảnh chiến lược và
yêu cầu chiến lược đó. Vua Trần đã nhiều lần đề cập đến vấn đề tương quan
lực lượng khi tiếp xúc với các sứ thần Mông Cổ. Năm 1258, Trần Thái
Tông đã nói với sứ giả Mông Cổ tên là Nậu Lạt Đinh rằng: "Nước nhỏ
thành tâm thờ nước lớn thì nước lớn đối đãi thế nào?". Năm 1268, Vua Trần
Thánh Tông chất vấn sứ thần Mông Cổ: "Đã xưng là nước lớn, tại sao còn
đòi tê tượng?". Tháng 2-1275, trong chiếu thư gửi vua Nguyên, Trần Thánh
Tông cũng đã tố cáo: "Những kẻ sai đến (tức bọn sứ giả) động tý là cậy thế
chèn ép nước nhỏ". Nhận thức về hoàn cảnh, thế nước lúc bấy giờ cũng
được quán triệt trong tư tưởng các sứ thần Đại Việt. Đào Tử Kỳ được phái
đi sứ sang Nguyên năm 1293 đã bác bỏ những lời đe dọa của tên thượng
thư triều Nguyên, Trương Lập Đạo bằng lập luận sắc bén: "Các ông là nước
lớn, chúng tôi là nước nhỏ. Chúng tôi chỉ muốn yên ổn, có bao giờ chúng
tôi lại muốn sinh sự. Chỉ vì các ông cậy có người đông sức mạnh đến, chực
đè đầu cưỡi cổ chúng tôi. Vì lẽ phải giữ mình, chúng tôi phải chống lại.
Người xưa nói: "Trực vi tráng, khúc vi lão", nghĩa là việc chiến tranh, vì lý
thẳng thì thắng, lý cong thì thua. Chúng tôi vì tự vệ nên chúng tôi thắng,
các ông vì ăn cướp nên các ông thua; đó là lẽ tất nhiên không thể lấy thế
mạnh yếu, nước to nhỏ mà bàn được"
70
. Trong bối cảnh đất nước như thế
thì quan điểm "dĩ đoản chế trường" đã chỉ đạo toàn bộ các hoạt động kháng
chiến của cấp lãnh đạo cũng như của quân đội nhà Trần.
Có thể hiểu rằng, "đoản binh" tức là quân ít, quân nhỏ; "thường
trận" hay trường binh là quân lớn, quân đông (đại quân); cũng có thể hiểu