Từ năm 1414, chính quyền đô hộ nhà Minh được xây dựng và củng
cố trên hầu khắp cả nước. Chúng đẩy mạnh các chính sách bóc lột, khai
thác kinh tế và thực thi các thủ đoạn đồng hóa về mọi mặt. Tuy vậy, phong
trào đấu tranh của nhân dân vẫn tiếp diễn ở nhiều nơi. Nghĩa quân "áo đỏ"
vẫn chiến đấu ngoan cường. Các cuộc khởi nghĩa Nông Văn Lịch, khởi
nghĩa Hoàng Thiện Hữu... vẫn duy trì hoạt động vũ trang. Nhiều cuộc khởi
nghĩa mới lại bùng nổ, lớn nhất là khởi nghĩa Trần Nguyệt Hồ (Thanh
Hóa).
Từ năm 1417, phong trào yêu nước lại bùng lên. Sử cũ của ta chép
rằng: "Lúc ấy quan lại nhà Minh tham lam sách nhiễu không biết thế nào là
cùng, tên Mã Kỳ làm nhiều việc phi pháp, bắt dân nộp châu báu quá nhiều,
dân không sao kham được sự khổ sở. Vì thế lòng người náo động, binh lính
bốn phương nổi lên, mà người Minh không thể nào chống lại được"
21
. Sử
nhà Minh (Minh sử) thì cho rằng: "Người Giao Chỉ vốn thích làm loạn" và
thừa nhận lúc đó "dân tình náo động", "cường hào các nơi nổi lên làm
loạn".
Trung tâm của phong trào yêu nước giai đoạn này là khu vực từ
Thanh Hóa đến Thuận Hóa. Bởi vì lúc đó, nhà Minh tuy đã đàn áp được
các cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng, nhưng chính quyền
đô hộ ở vùng này mới được xây dựng, chưa có cơ sở vững chắc. Một bộ
phận quan lại, binh sĩ có tinh thần dân tộc trong hàng ngũ thổ quan, thổ
binh cũng sớm tham gia khởi nghĩa chống quân Minh. Một số cuộc khởi
nghĩa ở Thuận Châu, Nam Linh (Quảng Trị) được đông đảo nhân dân và
binh lính hưởng ứng, đã uy hiếp nghiêm trọng bộ máy thống trị của địch.
Lý Bân phải điều động hai vệ quân từ Đông Quan vào phối hợp với các vệ
quân ở Tân Bình và Thuận Hóa tiến hành đàn áp.
Như vậy ngay sau khi đánh bại lực lượng kháng chiến của triều Hồ,
quân Minh đã phải đối phó thực sự với phong trào kháng chiến của nhân
dân ta. Mặc dù phần lớn các cuộc khởi nghĩa đều bị quân thù đàn áp, nhưng
phong trào đã thể hiện ý thức dân tộc, tư tưởng quyết tâm chống ngoại xâm,
giành độc lập, tự chủ của nhân dân ta. Tinh thần yêu nước ý chí quật cường,