làm hai đạo tiến vào Đại Việt. Đạo thứ nhất 10 vạn quân, do Liễu Thăng
chỉ huy tiến từ Quảng Tây vào Lạng Sơn. Đạo thứ hai 5 vạn quân, do Mộc
Thạnh chỉ huy tiến từ Vân Nam theo đường Lê Hoa (Lào Cai). Lê Lợi chủ
trương cho tiếp tục vây Đông Quan và các thành, để một bộ phận kiềm chế
đạo quân Mộc Thành, còn đại bộ phận nghĩa quân tập trung vào hướng Chi
Lăng - Xương Giang, nhằm tiêu diệt gọn toàn bộ đạo quân chủ lực do Liễu
Thăng chỉ huy.
Trận Chi Lăng - Xương Giang là trận quyết chiến chiến lược lớn
nhất trong cuộc chiến tranh. Quân ta tổ chức mai phục, đánh chặn quyết liệt
quân Minh trên đường tiến từ Chi Lăng xuống Xương Giang. Trong vòng
chưa đầy một tháng, nghĩa quân đã tiêu diệt hầu như toàn bộ 10 vạn quân
tiếp viện của nhà Minh. Nhiều tướng giặc phải đền mạng, như Liễu Thăng,
Lý Khánh. Các đô đốc Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng 3 vạn quân bị bắt. Ta thu
toàn bộ vũ khí, quân trang, lương thực của giặc.
Nghe tin đạo quân Liễu Thăng bị tiêu diệt, đạo quân Mộc Thành
đang cầm cự ở biên giới, vội tháo chạy. Quân ta truy kích giết 2 vạn, bắt
sống 1.000 tên.
Sau thất bại ở biên giới, Vương Thông và bọn tướng Minh ở Đông
Quan chí cùng lực kiệt nhưng vẫn rất ngoan cố. Với thiện chí hòa bình và
mục đích chính là giải phóng đất nước, kết thúc chiến tranh trong điều kiện
có lợi nhất, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã kiên trì thuyết phục, mở đường thoát
danh dự cho quân địch. Vương Thông không còn cách nào khác, xin "giảng
hoà". Ta tổ chức Hội thề Đông Quan và cấp ngựa, cấp thuyền cho quân
Minh được an toàn về nước.
Sau 10 năm chiến đấu bền bỉ, gian khổ, ngoan cường, cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ giải
phóng dân tộc. Thắng lợi vĩ đại đó chứng tỏ nghệ thuật khởi nghĩa và chiến
tranh giải phóng của ông cha ta thời đó đã đạt đến đỉnh cao và để lại nhiều
bài học lịch sử quý giá. Tư tưởng quân sự trong cuộc kháng chiến và chiến
tranh giải phóng dân tộc này có nhiều nét độc đáo riêng của nó.