Trong giai đoạn chiến đấu bảo vệ căn cứ Lam Sơn, nghĩa quân
nhiều lần bị quân Minh tiến công, truy quét. Bọn Lý Bân, Phương Chính
liên tiếp chỉ huy quân lính từ Tây Đô tiến lên vây đánh Lam Sơn. Mặc dù
chiến đấu hết sức dũng cảm, nhưng trong tình thế tương quan lực lượng quá
chênh lệch, nghĩa quân phải ba lần rút lên núi Chí Linh, một ngọn núi hiểm
trở ở miền thượng lưu sông Chu. Rút lên núi Chí Linh, Lê Lợi chủ trương
dựa vào địa thế cực kỳ hiểm trở ở đây để tránh cuộc truy đuổi của giặc.
Và núi Chí Linh đã như một biểu tượng của tinh thần chịu đựng
gian khổ, ý chí bền bỉ, ngoan cường của nghĩa quân. Nguyễn Trãi đã ví nó
với Cối Kê đã che chở cho Việt Vương Câu Tiễn đánh Ngô Vương Phù Sai.
Địa hình hiểm yếu của Chí Linh đã che chở cho nghĩa quân trong những
tháng ngày bị quân thù truy kích, nhưng Chí Linh lại xa dân, không phải là
căn cứ tốt để nghĩa quân Lam Sơn ẩn náu lâu dài. Lê Lợi và Nguyễn Trãi
đã nhận thấy điều đó.
Sau khi quân giặc rút về Tây Đô, nghĩa quân lại trở về căn cứ Lam
Sơn. Nhân dân Lam Sơn bị giặc khủng bố tàn khốc, nhưng cũng vì thế lòng
căm thù giặc càng cao và nhân dân càng gắn bó, thương yêu nghĩa quân.
Nhân dân vùng căn cứ, cả người Kinh, người Mường, người Thái đều hết
lòng giúp đỡ nghĩa quân xây dựng lại lực lượng. Và do vậy chỉ trong một
thời gian ngắn, nghĩa quân lại phục hồi và khí thế càng nâng cao.
Lợi dụng lúc quân Minh cũng gặp khó khăn, mỏi mệt, Lê Lợi và
Nguyễn Trãi chủ trương thương lượng đình chiến. Việc "trá hàng" của Lê
Lợi là một sách lược nhằm tranh thủ thời gian để xây dựng căn cứ và củng
cố lực lượng: "Bên ngoài giả thác hòa thân" để "bên trong lo rèn chiến cụ",
"quyên tiền mộ lính". Nghĩa quân trở về Lam Sơn tiến hành khẩn hoang,
sản xuất, tích trữ lương thực và sắm thêm khí giới. Với sự đùm bọc, che
chở, ủng hộ của nhân dân, nghĩa quân Lam Sơn trên thực tế đã làm chủ căn
cứ Lam Sơn.
Như vậy, địa thế miền thượng du Thanh Hóa rất hiểm trở, nhân dân
địa phương hết lòng giúp đỡ nghĩa quân. Đó là căn cứ và khu vực hoạt