cho biết đội quân này có số lượng là bao nhiêu, nhưng đó là đội quân đã
từng tiến công thành Đại La, đánh đuổi quân Nam Hán (năm 931), diệt
Kiều Công Tiễn (năm 938), nên chắc hẳn có số lượng đông đến vài vạn
người, có tinh thần chiến đấu và giàu lòng yêu nước.
Đồng thời, do ý thức dân tộc ngày càng trưởng thành, nên trước họa
ngoại xâm, nhiều hào trưởng yêu nước ở các nơi đã đem quân về dưới
trướng Ngô Quyền để cùng đánh quân xâm lược. Theo thần tích của nhiều
địa phương, trong đội quân của Ngô Quyền có lực lượng của nhiều hào
mục, thủ lĩnh ở nhiều nơi khác tham gia, như: Lã Minh ở Liễu Chử, xã
Song Liễu (Thuận Thành, Bắc Ninh), Phạm Bạch Hổ ở Ngọc Đường (Kim
Động, Hưng Yên), Phạm Chiêm ở Nam Sách (Hải Dương), Đinh Công Trứ
ở Hoa Lư (Ninh Bình), Kiều Công Hãn ở Bái Dương (Nam Định), Ngô
Xương Ngập ở Quang Đàm, An Hải (Nam Định)... Cho nên, khi Ngô
Quyền dẫn quân ra chống giặc ở cửa biển thì ông đã có trong tay một đội
quân của cả nước, đúng như sử gia Lê Văn Hưu đã nhận xét: "Tiền Ngô
Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm
vạn quân của Lưu Hoằng Tháo"
36
.
Bên cạnh đội quân chủ lực, Ngô Quyền cũng huy động lực lượng
dân binh ở các làng xã dọc đường hành quân, nhất là dân binh ở các làng xã
quanh vùng xảy ra chiến trận. Nhiều nguồn tư liệu địa phương đã phản ánh
việc Ngô Quyền tuyển quân ở vùng cửa biển, chọn lấy những người giỏi về
sông nước. Theo truyền thuyết Gia Viên (nội thành Hải Phòng), Ngô Quyền
đã mộ được ở đây 30 người vào đội quân "thần tử" để chuẩn bị cho cuộc
chiến; hay Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận là người địa phương đã cầm đầu
các đội quân tham gia nhiều mũi tiến công trong thế trận của Ngô Quyền.
Cũng theo truyền thuyết, thần tích các địa phương ở Hải Phòng, ba
anh em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả ở làng Hoàng Pha, xã Hoàng Động
(Thủy Nguyên) huy động lực lượng dân binh đánh giặc tại chỗ; chàng trai
họ Phạm ở xã Đằng Giang (An Hải) tham gia đóng cọc trên sông Bạch