Đằng; Nguyễn Quý Minh ở Lâm Động (Thủy Nguyên) cho biết người
mách bảo con nước thuỷ triều để Ngô Quyền chuẩn bị kế hoạch diệt địch
trên sông Bạch Đằng và hiến kế đóng cọc trên sông Bạch Đằng...
Nhờ vậy, trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán
lần thứ hai, Ngô Quyền đã tập hợp được lực lượng đông đảo của cả nước,
trong đó có đội quân chủ lực giỏi cả về đánh thủy và đánh bộ làm nòng cốt.
Đồng thời, Ngô Quyền cũng chủ động lập sẵn thế trận để phá giặc.
Quyết tâm ấy được thể hiện trong lời ông bàn với các tướng về kế phá giặc:
"Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm trước ở cửa
biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau
đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát"
37
. Vì vậy ông đã cho xây
dựng một trận địa cọc ngầm ở hai bên cửa sông Bạch Đằng. Đây là một
vùng đất hiểm yếu, cửa ngõ phía đông bắc và là đường giao thông quan
trọng từ biển Đông vào nội địa nước ta. Sử sách của ta thời xưa từng viết về
địa thế sông nước khu vực này: "Sông Bạch Đằng có tên gọi nữa là sông
Vân Cừ, rộng hơn 2 dặm, ở đó có nhiều núi cao ngất, nhiều nhánh sông đổ
lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ biển,
thực là một nơi hiểm yếu về đường biển"
38
.
Chính giữa vùng thiên nhiên sông biển đó, trên cơ sở sức mạnh
đoàn kết và ý chí độc lập của cả dân tộc, Ngô Quyền khẩn trương bày sẵn
một thế trận hết sức hiểm hóc, lợi hại để chủ động phá giặc. Ông huy động
cả quân và dân vào rừng đẵn gỗ, vót nhọn, bịt sắt, rồi cho đóng xuống lòng
sông thành hàng dài, tạo nên một bãi cọc, một bãi chướng ngại dày đặc ở
hai bên của sông. Khi nước triều lên mênh mông, thì cả bãi cọc ngập chìm,
khi triều xuống thì hàng cọc nhô lên cản trở thuyền bè qua lại. Bãi cọc đã
thực sự làm tăng thêm phần hiểm trở cho địa hình thiên nhiên ở đây.
Về việc chuẩn bị trận địa cọc, các sách sử của ta chép không rõ mà
chỉ ghi chung chung là Ngô Quyền cho đóng cọc đầu bịt sắt ở cửa biển.
Song, để xây dựng một trận địa cọc to lớn, công phu trong thời gian ngắn