LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM - TẬP 2 - Trang 101

thủy binh, bộ binh và tượng binh tinh nhuệ đánh bại cuộc tấn công của Trịnh Tráng. Trịnh
Tráng rút quân về, củng cố lực lượng chuẩn bị cho các cuộc tiến công mới với quy mô và mức
độ ác liệt hơn.

Tháng 6 năm Nhâm Tý (1672), chúa Trịnh dẫn 10 vạn quân thủy bộ (nhưng phao lên

thành 18 vạn) quyết phá tan hệ thống phòng thủ của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cũng huy
động cao độ lực lượng, phao tin là có 26 vạn sẵn sàng đối chiến với chúa Trịnh. Hai bên đánh
nhau kịch liệt hàng tháng liền. Riêng vùng lũy Trấn Ninh, như quốc sử nhà Nguyễn chép:
"Quân Trịnh xác chết thành đống, quân ta (tức quân Nguyễn) cũng bị thương và chết rất
nhiều”

43

Cuối cùng quân Trịnh phải rút về phòng giữ nghiêm ngặt ở châu Bắc Bố Chính. Và

sau 45 năm chinh chiến (1627-1672), quân Trịnh đã 6 lần tấn công với quy mô lớn vào khu
vực phía nam sông Gianh, trong khi quân Nguyễn chỉ duy nhất có một lần đánh ra phía bắc
sông Gianh, chiếm đóng 7 huyện Nghệ An trong 5 năm, nhưng kết cục là không bên nào thôn
tính được bên nào. Cuối cùng chúa Trịnh và chúa Nguyễn đi đến thỏa thuận lấy sông Gianh
làm ranh giới phân định đất nước thành hai “quốc gia" là Đàng Trong và Đàng Ngoài.

- Quân đội triều Mạc.

Kế thừa và phát triển quan điểm xây dựng quân đội trong tư tưởng quân sự triều Lê Sơ

và trước đó, quân đội triều Mạc được tổ chức gồm các bộ phận: Bộ Binh (cơ quan chuyên
trách hành chính - quân sự), Binh khoa, các Giám sát Ngự sử (cơ quan kiểm sát quân sự), 4 vệ
quân (cấm quân), 5 phủ quân và các Đô ty (trấn quân).

Về 4 vệ quân, năm Mậu Tý (1528), Mạc Đăng Dung đặt 4 vệ quân thống lĩnh cấm

quân của triều đình, gồm: Vệ Hưng Quốc (binh lính lấy từ xứ Hải Dương), Vệ Cẩm Y (binh
lính lấy từ xứ Sơn Tây), Vệ Kim Ngô (binh lính lấy từ xứ Kinh Bắc), Vệ Chiêu Vũ (binh lính
lấy từ xứ Sơn Nam).

Ở mỗi vệ có một viên thư ký. Quân trong các vệ được phân bổ thành các ty. Mỗi ty đặt

một viên Chỉ huy xứ, 1 viên Chỉ huy Đồng tri, 1 viên Chỉ huy Thiêm sự, 10 viên Trung hiệu,
1.100 Trung sĩ, chia thành 22 phiên để túc trực. Các trung sĩ theo lệ chia phiên, mỗi phiên chia
thành 5 giáp, mỗi giáp đặt 1 viên giáp thủ

44

.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết: “Đăng Dung lại đặt thêm vệ

Hưng Quốc và vệ Chiêu Vũ, cộng với hai vệ Cẩm Y, Kim Ngô đã đặt từ trước, thành bốn
vệ"

45

. Như vậy, cùng với 2 vệ Cẩm Y và Kim Ngô kế thừa của quân đội triều Lê, Mạc Đăng

Dung đặt thêm 2 vệ Hưng Quốc và Chiêu Vũ, tổ chức lại cấm quân thành 4 vệ với những quy
cách mới. Đến khoảng những năm 1549-1562, triều Mạc đặt lại tên cho 4 vệ quân này là Phù
Nam, Phù Tây, Triều Đông và An Bắc.

Năm Canh Tuất (1550) - Tân Hợi (1551), trong cuộc giải cứu Lê Bá Ly bị vây ở trại

Hồng Mai, "Vạn An hầu, Văn Phái hầu (Nguyễn Quyện) và Tả Ngự hầu mỗi người mang
3.000 cấm binh tới hộ vệ"

46

. Ít lâu sau, "tướng Tây đạo là Thái uý Đoan quốc công Nguyễn

Khải Khang (...) cũng dẫn 3.000 quân dưới trướng quy thuận (vua Lê)"

47

. Quân số mỗi Vệ

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.