LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM - TẬP 2 - Trang 108

Sách Lê triều chiếu lệnh thiện chính cho biết có những quy định trong triều chính cho

thấy rõ sự phân biệt vị thế của các quan văn và quan võ trong đời sống chính trị Đàng Ngoài.
Theo đó, các "quan võ không như quan văn, có thể đến phủ chúa bất kỳ lúc nào trong trường
hợp khẩn cấp"

60

. Đồng thời, chúa Trịnh đã bắt buộc các quan văn cũng phải luyện tập bắn

cung nỏ

61

- một việc mà các quan văn "mũ cao áo dài” chưa từng phải thực hiện trước đó

trong suốt tiến trình lịch sử Việt Nam. Như vậy, ưu đãi và đề cao vai trò của quan võ là một
quan điểm độc đáo, cần thiết thời bấy giờ thuộc về tư tưởng quân sự của triều Lê - Trịnh.

Trịnh là một nhà nước trọng võ, các võ tướng dòng họ Trịnh nắm giữ thực quyền.

Suốt trong thời gian tồn tại, nhà nước đó đã phải liên tiếp đương đầu với chiến tranh, trận
mạc; đó là các cuộc chiến chống lại Bắc triều nhà Mạc, sau đó là họ Mạc ở Cao Bằng, chúa
Nguyễn ở Đàng Trong, rồi tiếp đến là các cuộc khởi nghĩa nông dân và phong trào Tây Sơn.

Để xây dựng quân đội, nhà nước Lê - Trịnh chủ yếu thực thi chế độ tuyển chọn bắt

lính nghĩa vụ, kết hợp với chế độ quân dự bị (cho quân luân phiên về cày ruộng) và chế độ
quân tình nguyện (mộ binh lấy ở bốn nội trấn, sau đó thì bỏ).

Căn cứ vào sổ hộ khẩu các xã, nhà nước kén tuyển những đinh nam khoẻ mạnh, trên

18 tuổi. Tỷ lệ tuyển binh thay đổi tùy theo thời gian và khu vực; cụ thể là: ở các phiên ngoại
trấn: 5 đinh lấy 1, ở bốn nội trấn: 3 đinh lấy 1, vùng Thanh - Nghệ: 3 đinh lấy l; song trên thực
tế nhiều khi cứ "ai có sức khoẻ là lấy hết, không có định lệ”

62

. Thời gian phục vụ quân ngũ

của quân lính Đàng Ngoài là 30 năm. Những ghi chép trong Lịch triều hiến chương loại
chí
Lê triều hội điển cho biết chỉ khi nào người lính quá đau yếu hoặc đến tuổi 59, 60 và
khi có người thay thế, mới được xuất ngũ cho về quê

63

.

Với phép kén chọn phức tạp, nhiều chỗ không chính xác, thêm vào đó là nạn ẩn lậu

tràn lan do chiến tranh kéo dài, đời sống khó khăn, việc xác định số quân chính xác của Đàng
Ngoài hầu như không có được giải pháp triệt để. Bấy giờ, đã có người tính toán rằng quân số
của quân đội Đàng Ngoài là khoảng 65.700 quân. Tuy nhiên, ngay cả Phan Huy Chú cũng
không tin vào con số này. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: khi mới thu phục Thăng
Long, vua Lê - chúa Trịnh duyệt quân, đã có tới 120.000 quân (lấy từ Thanh - Nghệ). Như
vậy, thực tế số lượng quân sĩ của Đàng Ngoài sẽ có thể nhiều hơn.

Quân thường trực dưới triều Lê - Trịnh được thừa hưởng nhiều quyền lợi: được cấp

lương (tiền và gạo hằng tháng), tiền vọng (phụ cấp) thuốc men, ruộng khẩu phần (theo quy
định năm Mậu Thân (1728), mỗi binh sĩ được cấp 5 mẫu ruộng hạng nhất ở quê); nếu bị tử
trận, gia đình sẽ được hưởng tiền tuất và phong tặng chức tước. Ngược lại, triều đình cũng
quy định nhiều hình phạt hết sức nghiêm khắc để nghiêm trị những binh sĩ bỏ trốn, hay mắc
các khuyết điểm như kiêu lười, sơ suất.

Về tổ chức, quân đội Đàng Ngoài chia thành Ngũ phủ. Thống lĩnh quân đội là chức

Tiết chế, thường giao cho các thế tử (con chúa Trịnh được chọn nối nghiệp). Binh lính được
phiên chế thành các hạng:

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.