Một khi chiến cụ đã đầy đủ, phòng vệ trong ngoài đã chu đáo thì giữ sẽ vững, đánh sẽ
thắng. Giặc ngoài đã dẹp, trong nước tự yên, hạ thần tuy hưu dưỡng tại nơi điền viên, cũng
được dự hưởng phúc thái bình"
78
.
Theo đó, nhà Mạc bèn tổ chức sửa sang đường sá ngoại thành Thăng Long, lại huy
động quân dân hai xứ Tây và Nam dồn sức đắp lũy đất, trên lũy trồng tre gai, trên từ sông Hát
xuống đến sông Hoa Đình thuộc huyện Sơn Minh, kéo dài đến vài trăm dặm, tạo thành các
bức lũy vững chắc phòng ngừa quân Trịnh kéo ra
79
.
Năm Mậu Tý (1588), Mạc Mậu Hợp lại huy động quân dân các huyện trong bốn trấn
đắp thêm các lớp lũy ngoài thành Đại La ở Thăng Long, từ phường Nhật Chiêu (nay là
phường Nhật Tân, Hà Nội) vượt qua Hồ Tây, qua cầu Dừa (nay thuộc phường Thịnh Quang,
Hà Nội) đến cầu Dền (nay là ô Cầu Dền, gần Bạch Mai, Hà Nội) kéo dài suốt đến Thanh Trì,
giáp phía tây bắc sông Nhị Hà, cao hơn thành Thăng Long đến khoảng vài trượng, đào 3 lớp
hào, đều trồng tre ken dày, hết sức kiên cố, toàn bộ lũy đất kéo dài mấy mươi dặm để bao bọc
lấy phía ngoài thành Thăng Long
80
.
Như vậy, ngay trước cuộc quyết chiến năm Nhâm Thìn (1592) quyết định kết cục cuộc
nội chiến Nam - Bắc triều giữa quân đội nhà Mạc với quân đội Lê - Trịnh, triều Mạc đã huy
động đến tận cùng sức người sức của, dựng nên quanh Kinh thành Thăng Long một hệ thống
bờ lũy dài, kiên cố bao quanh bảo vệ chính quyền trung ương của mình. Đây là bức lũy dài
nhất của Thăng Long - Hà Nội trong lịch sử. Đồng thời cũng là chiến lũy lớn nhất, công phu
nhất mà triều Mạc đã tổ chức xây dựng và sử dụng trong suốt thời gian cầm quyền. Bức lũy
này là thành tựu hiện thực lớn nhất của tư tưởng xây dựng và sử dụng thành lũy trong chiến
đấu phòng ngự - phòng thủ bảo vệ vùng lãnh thổ cát cứ của triều Mạc. Tuy vậy, cố gắng cuối
cùng và lớn nhất của triều Mạc về xây dựng thành lũy cho đến trước khi bị đánh bật ra khỏi
đồng bằng Bắc Bộ cũng đã không giúp cho vua tôi triều Mạc bảo vệ được Đông Kinh, bảo vệ
được vùng lãnh thổ mà họ đã dày công mở rộng và ra sức giữ gìn trong gần 70 năm cầm
quyền. Quân Lê - Trịnh đã nhanh chóng chọc thủng được hệ thống thành lũy của nhà Mạc,
chiếm Đông Kinh.
Sau khi bị đánh bật ra khỏi Kinh thành Thăng Long, tiếp đến là Hải Dương, Yên
Quảng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, cuối cùng nhà Mạc phải rút lên vùng rừng núi biên giới Cao
Bằng, hy vọng nương nhờ vào sự can thiệp của nhà Minh và sự hiểm yếu của vùng rừng núi
Đông Bắc xa xôi để cát cứ. Trong cuộc tiễu trừ dư đảng nhà Mạc ở Cao Bằng (lúc đó gọi là
Cao Bình) của chính quyền Lê - Trịnh, tính chất của một cuộc nội chiến giữa hai thế lực để
giành quyền thống trị ngày càng phai nhạt, với sự suy yếu rõ nét của họ Mạc. Họ Mạc đã lui
về trở thành một thế lực cát cứ ở vùng núi, như thủ lĩnh của một bộ tộc muốn ly khai, tách ra
khỏi sự kiểm soát của chính quyền trung ương để làm chủ một "góc trời” sơn cước - một hiện
tượng tương đối phổ biến ở vùng núi Đông Bắc - Tây Bắc nước ta trong lịch sử, như Nùng Trí
Cao, Đèo Cát Hãn... trước đó.