LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM - TẬP 2 - Trang 128

Mặt khác, nhà Mạc cử Nguyễn Văn Thái sang Yên Kinh dâng biểu xin hàng. Nhà

Minh cho rằng: "Những lời trong biểu bưng bít, lừa dối. Vả lại tuy xin hàng mà lời lẽ vẫn
không thành khẩn khuất phục, Đăng Dung lại không tự trói mình để chịu tội"

103

. Chuyến đi sứ

không thành.

Năm Kỷ Hợi (1539), Mao Bá Ôn đến Quảng Tây, đóng quân dựng đồn và truyền hịch

rằng: Hễ ai bắt được cha con Mạc Đăng Dung thì thưởng cho quan tước và 2 vạn lạng
bạc.
Song, mặt khác Mao Bá Ôn cũng ra điều kiện nếu cha con Mạc Đăng Dung biết tự trói
mình đợi tội, thành khẩn dựng hết các sổ sách về đất đai và nhân dân thì sẽ lui binh.

Trước tình hình đó, Mạc Đăng Dung cùng cháu là Văn Minh và 40 bề tôi, trong đó có

Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc,
Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vinh... qua trấn Nam Quan dâng biểu xin hàng,
nộp sổ sách và cắt đất 5 động

104

ở Đông Bắc vốn được sáp nhập vào Đại Việt từ đầu thời Lê

Sơ trả lại cho nhà Minh.

Mao Bá Ôn tâu về Yên Kinh: Đăng Dung phần sợ uy trên, phần mến đức độ, đã tự

trói mình đợi tội, dựng đất đai theo chính sóc và "biện hộ" cho nhà Mạc, rằng: “Nếu như xem
Mạc Đăng Dung là kẻ có tội đầu hàng mà chưa có thể khinh suất cho tước và đất thì cháu hắn
là Mạc Phúc Hải hiện nay còn đợi lệnh. Nếu mang ơn cho tội thì hoặc có thể cho làm các chức
đô hộ Tổng quản theo như việc của nhà Hán, nhà Đường... Còn như Lê Ninh tự xưng là con
cháu họ Lê nhưng cứ theo các ty tra xét thì tung tích khó biết rõ ràng. Trịnh Duy Liêu thì có
ngầm đến động trại Thạch Lâm nước ấy, gắn liền với thổ quan Quảng Tây, diện mạo của Lê
Ninh thế nào không từng biết, cho nên hoặc gọi là Lê Ninh, hoặc gọi là Lê Hiến, hoặc gọi là
Quang Chiếu, Quang Hòa hoặc lại bảo là họ Trịnh trá xưng, mà Trịnh Viên thì nói rằng ở
động Tất Mã tuy có Lê Ninh nhưng lai lịch tông phái không biết rõ, bày tỏ sự tình, tuổi tác,
nét mặt lại khác với lời báo trước đây của Trịnh Duy Liêu đều khó lấy làm bằng cứ. Hãy cho
ở Tất Mã mà chờ lệnh. Nếu không phải là con cháu họ Lê thì bỏ đấy. Còn Trịnh Duy Liêu thì
cho sở thuộc Quảng Đông tùy nghi cấp lương, cho ruộng và nhà đừng để phải bơ vơ. Xử nhân
như thế ngõ hầu mới chu tất"

105

.

Sau hành động trên, quan hệ nhà Minh (Trung Quốc) - nhà Mạc (Đại Việt) trở lại bình

thường. Nhà Mạc chấp nhận làm phiên thần về mặt hình thức với vua Minh, theo lệ quy định
mà cống nộp trong suốt hơn nửa thế kỷ ở Thăng Long và còn tiếp tục giữ các mối quan hệ
ngoại giao khá tốt đẹp với nhà Minh ngay cả khi đã rút lên cát cứ ở Cao Bằng.

Tháng 10 năm Tân Sửu (1541), nhà Minh đổi tên nước An Nam thành An Nam đô

thống sứ ty, phong Mạc Đăng Dung làm Đô thống sứ, ban ấn chương và cho con cháu được
thế tập, quy định thể lệ triều cống 3 năm một lần. Hằng năm triều Mạc cử người lên Nam
Quan đón lịch Đại thống của nhà Minh. Các lễ cống năm trước nếu thiếu thì phải bổ sung.

Tháng 3 năm Nhâm Dần (1542), Mạc Phúc Hải đến trấn Nam Quan để xét nghiệm và

"hội khám” cùng nhận 1.000 bản lịch Đại thống của nhà Minh. Tháng 8, nhà Mạc sai Mạc

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.