băng hà, đất nước bị chia thành ba vương quốc nhỏ là Luổng Phạbang, Viêng Chăn và
Chămpaxắc. Trong nhiều năm tiếp đó, các vương quốc này xung đột với nhau ngày càng
quyết liệt, tạo cơ hội cho Xiêm La (Thái Lan) can thiệp ngày càng sâu vào nội tình. Dù vậy,
chính quyền Đàng Ngoài luôn duy trì chính sách ngoại giao quân sự mềm mỏng nhưng có
nguyên tắc đối với chính quyền Ai Lao. Vì thế, quan hệ ngoại giao Đàng Ngoài - Ai Lao
tương đối tốt đẹp. Ai Lao không còn quấy rối ở vùng biên giới với Đại Việt, vùng phía Tây
biên cương nước ta khá yên ổn.
- Chúa Nguyễn cương nhu với Chămpa và Chân Lạp:
Năm Mậu Ngọ (1558), Đoan Quận công Nguyễn Hoàng được chính quyền Nam triều
cử vào trấn thủ Thuận Hoá. Đến năm Canh Ngọ (1570), ông kiêm quản luôn cả vùng Quảng
Nam giáp với Chămpa. Kể từ đây Nguyễn Hoàng ra sức ổn định và củng cố miền biên giới
phía Nam này để tạo dựng cơ sở cát cứ. Sự kiện này đánh dấu một bước quan trọng trong quá
trình mở cõi xuống phía Nam, thâu nhập thêm các vùng đất mới và những cộng đồng cư dân
mới.
Vào khoảng thời gian từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII, vương quốc Chân Lạp
liên tục bị Xiêm La chèn ép, xâm thực đến mức không tự bảo vệ được mình và họ buộc phải
dựa vào đồng minh gần gũi là chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong. Mối quan hệ láng giềng
gần gũi cùng với thời gian đã dẫn đến hệ quả tất yếu là các mặt kinh tế, văn hoá, chính trị và
xã hội giữa người Cao Miên và người Việt ngày càng giao hòa bền chắc.
Năm Tân Hợi (1611), chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho quân giúp Chân Lạp đánh đuổi
quân Xiêm La. Đổi lại thiện tình giao hảo đó, vua Chân Lạp đã cho phép họ Nguyễn đưa dân
vào khai khẩn sinh sống ở vùng đất hoang vu, sình lầy ở Đồng Nai, Biên Hoà, lập dinh điền ở
Bà Rịa, lập sở thu quan thuế ở khoảng Chợ Lớn, Bến Nghé hiện nay. Năm Mậu Tuất (1658),
vua Chân Lạp cam kết với chúa Nguyễn giúp đỡ người Việt đang sinh sống ở Đồng Nai, Bà
Rịa. Từ đây, lưu dân người Việt đến ở chung với người Cao Miên để khai khẩn ruộng đất,
chung tay xây dựng quê hương mới. Đến những năm Kỷ Tỵ (1689), Canh Ngọ (1690), miền
đất phía bắc sông Tiền đã được cư dân cũ và mới ra sức khai khẩn, biến những vùng chằm
phá, rừng rú hoang vu, rậm rạp thành đất canh tác nông nghiệp.
Năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi
kinh lược vùng đất đồng bằng sông Cửu Long, đặt huyện Phúc Long (Đồng Nai), dựng dinh
Trấn Biên (Biên Hoà), dinh Phiên Trấn (Gia Định). Người Việt được chiêu mộ thêm đến vùng
đất mới an cư, lập nghiệp. Sau năm Kỷ Mão (1699), vùng đất từ phía bắc sông Tiền liền một
dải với đất xứ Đàng Trong chính thức được ghi vào bản đồ xứ Đàng Trong của các chúa
Nguyễn - một phần lãnh thổ của quốc gia Đại Việt. Quá trình "Nam tiến" được tiến hành bền
bỉ và hợp lý. Tính đến năm Đinh Sửu (1757) chúa Nguyễn đã khéo léo kết hợp các biện pháp
đối ngoại quân sự và kinh tế - xã hội để thâu nhập vào lãnh thổ xứ Đàng Trong toàn bộ dải đất
từ Châu Nam Bố Chính (Quảng Bình) tới vùng biển đảo phía Tây Nam.