Kính Điển, Nguyễn Công Nghi sang tạ ơn triều Minh. Tháng 12, nhà Minh phong Mạc Phúc
Hải nối chức An Nam Đô thống sứ ty Đô thống sứ.
Năm Quý Mão (1543), nhà Mạc sai sứ sang nhà Minh. Vua Minh ra lệnh ban cấp cho
sứ giả của triều Mạc theo thể lệ như cũ, nhưng bãi bỏ việc ban yến, giảm bớt cỗ bàn để tỏ ra
không phải là lễ tiếp bồi thần. Đến năm Mậu Thân (1548), Lê Tiến Quý lại được cử sang sứ
nhà Minh. Đến năm Giáp Tý (1564), Mạc Mậu Hợp sai Nguyễn Doãn Khâm, Nguyễn Năng
Thuận sang cống triều Minh, từ đó đổi lệ định cứ 6 năm triều cống một lần.
Kể từ ngày thành lập cho đến suốt cả thời gian tồn tại, nhà Mạc đã bị cuốn vào cuộc
nội chiến khốc liệt triền miên ở trong nước. Hậu quả là không chỉ có tiềm lực quốc gia bị cùng
kiệt, mà tâm lý chán ghét chiến tranh đã lan toả khắp các tầng lớp nhân dân. Dù vậy, với triều
Minh thì bên cạnh việc tăng cường phòng bị, bằng hàng loạt các biện pháp chính trị - ngoại
giao khôn khéo, mềm dẻo, triều Mạc đã tránh được chiến tranh, bảo vệ được chủ quyền quốc
gia.
Việc cắt 4 động thuộc 2 châu cho nhà Minh vào năm Mậu Tý (1528) là có thật; nhưng,
đây vốn là đất của nhà Minh mà một thế kỷ trước, thổ tù vùng này chịu quy phục và cắt nộp
cho nhà Lê. Trong tình hình đối nội, đối ngoại phức tạp của nhà Mạc lúc đó, thì việc trả lại 4
động vốn của nhà Minh là một ứng xử hợp lý, có tính toán chiến lược của triều Mạc: lấy đại
cục và lợi ích cơ bản làm mục tiêu cao nhất. Đây chính là một quan điểm thuộc về tư tưởng
đối ngoại quân sự của triều Mạc.
- Quan hệ của triều Lê - Trịnh với triều Minh, Thanh và Ai Lao:
Tất cả các quan ải, cửa sông, cửa biển ở Đàng Ngoài đều được nhà nước tổ chức bảo
vệ và giữ được về căn bản như đã có từ thời Lê Sơ.
Tại các vùng biên giới, tùy tính chất quan hệ biên giới ở những khoảng thời gian khác
nhau, chính quyền Lê - Trịnh thiết đặt hệ thống đồn binh phòng thủ dọc biên giới. Năm Nhâm
Dần (1722), khi việc tranh chấp mỏ đồng Tụ Long trở nên căng thẳng, viên trấn thủ Tuyên
Quang bấy giờ là Nguyễn Thành Lý dâng sớ về triều đình xin đóng thêm 3 đồn binh dọc biên
giới. Và như vậy, dọc biên giới thuộc châu Bảo Lạc và Vị Xuyên (Tuyên Quang) bấy giờ có
tất cả 6 đồn binh là Tỉnh Biên, Hà Giang, Linh Trường, Tụ Long, Ninh Bắc và Trung Mang,
với tổng số 2.315 quân. Ngoài ra, còn có 77 binh lính người dân tộc thiểu số của các thổ mục
Hoàng Văn Tuy và Hoàng Văn Toàn hỗ trợ tuần xét biên giới
106
. Bên cạnh đó, trong suốt thời
Lê - Trịnh, triều đình Đàng Ngoài tiếp tục áp dụng chính sách ràng buộc đối với các tù trưởng
miền núi biên giới để quản lý đất đai và dân sự. Để quản lý chặt chẽ cương vực đất đai, từ
năm Giáp Tuất (1694), các xã, động vùng biên phải tiến hành lập sổ "tu tri bạ" ghi rõ địa giới,
hình thế núi sông, những nơi hiểm yếu của địa phương gửi lên để hợp biên vào bản đồ của
trấn.
Với Ai Lao, thế kỷ XVII, Ai Lao thịnh vượng được gần nửa thế kỷ và có quan hệ bang
giao hoà bình với Đại Việt. Nhưng từ năm Canh Ngọ (1690), vua Ai Lao là Xulinha Vôngxa