sung cho quân số bị thương vong trong cuộc chiến với Nam triều. Nam triều tuy địa bàn cát
cứ hẹp hơn, nhưng quân đội cũng có khoảng 6 vạn người.
Trong cuộc Trịnh - Nguyễn phân tranh, cả hai bên đều huy động lực lượng lớn. Ngay
từ lần tấn công đầu tiên, chúa Trịnh cũng đã huy động đến 20 vạn quân thủy bộ (trong đó có
12 vạn bộ binh), 500 voi, 600 chiến thuyền lớn và 500 thuyền tải lương thực. Ngoài ra,
thường trực có khoảng 6 vạn quân đóng giữ biên giới phía Nam. Năm Giáp Dần (1674), binh
lực của họ Nguyễn có khoảng 133 chiến thuyền và 4 vạn bộ binh. Cuộc tranh chấp
Trịnh - Nguyễn đã gây ra rất nhiều tổn thất, đau thương cho nhân dân cả hai miền đất nước.
Nó đã thu hút biết bao sức người sức của, tàn phá biết bao làng mạc, đồng ruộng, đã giết hại
biết bao người dân vô tội.
Hơn 200 năm với hàng trăm trận đánh lớn nhỏ, các bên tham chiến đã huy động hàng
chục vạn quân, chủ yếu là những trai tráng khoẻ mạnh vốn là lực lượng lao động chính của xã
hội. Chiến tranh đã huy động đến mức tối đa nhân tài, vật lực của đất nước. Sản xuất nông
nghiệp bị ngưng trệ do thiếu lực lượng lao động chủ yếu và sức tàn phá của chiến tranh. Mặt
khác, cuộc nội chiến đã đem lại cho nhân dân lao động bao cảnh tang tóc, chia lìa. Chiến tranh
lan vào từng ngôi nhà, ngõ xóm.
Tổng hợp tất cả những yếu tố từ bối cảnh chính trị, thực trạng kinh tế xã hội, chuyển
biến trong văn hoá tư tưởng của đất nước và cả sự du nhập vũ khí kỹ thuật quân sự phương
Tây thực sự là những điều kiện trực tiếp nung nấu, thúc đẩy, nuôi dưỡng và trải nghiệm của tư
tưởng quân sự Việt Nam từ năm 1527 đến năm l771.
Nhìn toàn bộ lịch sử Việt Nam từ năm 1527 đến năm 1771, với các sự kiện trải dài từ
Bắc vào Nam, dưới các chính quyền Bắc triều, Nam triều, Lê - Trịnh và chúa Nguyễn, có thể
nhận thấy tồn tại song song và liên tiếp các hệ tư tưởng quân sự; đó là: tư tưởng quân sự triều
Mạc (Bắc triều), tư tưởng quân sự Lê - Trịnh (Nam triều và Đàng Ngoài), Tư tưởng quân sự
họ Nguyễn (Đàng Trong). Các hệ tư tưởng quân sự này tuy có những dị biệt nhất định, song
về cơ bản là tương đồng với nhau, cụ thể là: Tư tưởng xây dựng lực lượng quân đội mạnh làm
công cụ để tranh giành quyền lực, làm chỗ dựa cho sự tồn tại của các thế lực phong kiến; tư
tưởng xây dựng và sử dụng thành lũy trong chiến đấu (phòng thủ) bảo vệ vùng lãnh thổ cát
cứ; tư tưởng đối ngoại quân sự lúc mềm dẻo, lúc cứng rắn để giữ vững biên cương và mở rộng
cương giới. Đây cũng chính là sự kế thừa những quan điểm tư tưởng quân sự của những triều
đại phong kiến trước đó trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta; mà trong đó, xây dựng và sử
dụng thành lũy phục vụ tác chiến phòng thủ, phòng ngự là một quan điểm tư tưởng quân sự
nổi bật nhất của thời kỳ lịch sử này.
____________________
1. Xem Momoki Sáng: Đại Việt và thương mại ở biển Đông từ thế kỷ X đến XV, Kỷ
yếu hội nghị khoa học Đông Á, Đông Nam Á - những vấn đề lịch sử và hiện tại, Nxb. Thế
giới, Hà Nội, 2004, tr.324.