bộ binh, kỵ binh, tượng binh và thủy binh; quân nào cũng tinh nhuệ. Đặc biệt nhất trong số
này là 2 Quân người Thượng với 2.000 chiến mã, 4 Lữ nữ binh với 100 thớt voi.
Riêng hai Quân người Thượng trực tiếp do Nguyễn Huệ tổ chức và khi chiến đấu cũng
thường do ông trực tiếp chỉ huy. Binh sĩ của Quân người Thượng là những người vóc dáng
cao lớn, gan dạ, tay cầm lao hoặc cầm ná, lưng dắt dao bảy. Khả năng sử dụng vũ khí của họ
đã đạt tới mức thiện xạ: phóng lao trăm phát trăm trúng, bắn ná không cần nhắm (ngắm) cũng
trúng đích. Bên cạnh đó, họ cũng là những kỵ binh biệt tài, khi được lệnh ra trận thì chỉ biết
tiến không biết lùi.
Còn với 4 Lữ nữ binh do Bùi Thị Xuân và bà họ Trần (vợ tướng Nguyễn Văn Tuyết)
chỉ huy, ngày đêm chuyên cần luyện tập, nên võ nghệ của nữ binh cũng đạt tới độ điêu luyện.
Với đội tượng binh, Long Nhượng Tướng Quân giao đặc trách cho Bùi Thị Xuân tổ
chức huấn luyện. 100 thớt voi của quân Tây Sơn, phần lớn là mua của đồng bào dân tộc, phần
khác là do những người Thượng biếu tặng, hoặc là chiến lợi phẩm và cống phẩm... Địa điểm
huấn luyện voi của Bùi Thị Xuân là dãy gò ở Xuân Hoà - chính là quê hương của bà. Miêu tả
quyền uy điều khiển đội tượng binh của Bùi Thị Xuân, trong sách Nhà Tây Sơn, Quách Tấn
và Quách Giao viết: “Để điều khiển voi, bà thường dùng ngọn cờ đỏ (…). Ra diễn trường, bà
phất ngọn cờ thì con voi đầu đàn vội đến đứng nghiêm chỉnh trước mặt bà. Bà nhẹ nhàng
nhảy lên voi, vỗ nhẹ đầu voi. Voi cong vòi rống lên một tiếng. Tất cả đàn voi răm rắp đến sắp
hàng ngay ngắn trước đầu voi đầu đàn. Rồi theo hiệu cờ, tới lui, rẽ bên nam, sang bên bắc, khi
chậm khi mau, nhịp nhàng đều đặn”
32
. Sau khi đã huấn luyện thành thục, những thớt voi chiến
này được chuyển xuống thành Hoàng đế khép vào đội ngũ, phục vụ chiến đấu.
Song cùng với việc tuyển mộ, huấn luyện quân sĩ, huấn luyện voi chiến và ngựa chiến,
anh em Tây Sơn cũng cho mở nhiều xưởng đóng thuyền chiến, xây dựng nhiều lò rèn đúc khí
giới. Về xưởng đóng thuyền chiến, có hai xưởng lớn nhất: một ở Phương Mia (Quy Nhơn),
một ở Nha Trang (Diên Khánh). Lò đúc khí giới lớn nhất ở Quang Hiển, dưới chân Hòn Bà
(Tuy Phước).
Kế thừa tư tưởng và kinh nghiệm xây dựng quân đội của những ngày đầu dựng cờ
khởi nghĩa ở ấp Tây Sơn, kể từ khi trở thành Bắc Bình vương, về tổ chức lực lượng bộ binh,
Nguyễn Huệ quyết định phiên chế quân đội thành hệ thống: đội, cơ, đạo và doanh.
Đội là đơn vị cơ sở, mỗi đội có từ 60 đến 100 quân.
Cơ là đơn vị tác chiến cơ bản, mỗi cơ có từ 300 đến 500 quân.
Trên cơ là đạo, mỗi đạo có từ 1.500 đến 2.500 quân.
Trên đạo là doanh, mỗi doanh có từ 10.000 đến 15.000 quân. Doanh là đơn vị đảm
nhiệm tác chiến trên một hướng tiến công và thường do một Đô đốc hoặc Đại Đô đốc chỉ huy.