Ngoài ra, trong những trường hợp cần thiết, Nguyễn Huệ còn tổ chức ra đơn vị có quy
mô lực lượng lớn hơn nữa gọi là Đại quân, gồm từ 2 đến 3 doanh do một viên Đại Nguyên
soái thống lĩnh.
Để tạo được sức mạnh tổng hợp, bảo đảm tác chiến trong mọi điều kiện địa hình, môi
trường và nhất là tạo ra những thành phần lực lượng ưu thế hơn đối phương, nên bên cạnh
việc phát triển bộ binh, Nguyễn Huệ cũng đặc biệt quan tâm phát triển các thành phần lực
lượng khác như tượng binh, kỵ binh, đại bác thần cơ (pháo binh) và thủy binh.
Đối với bộ binh - lực lượng tác chiến chủ yếu của quân đội Tây Sơn, bên cạnh vũ khí
thô sơ (giáo, mác, cung, nỏ…) chiếm đa số, Nguyễn Huệ dần trang bị hoả hổ và một số đại
bác dã chiến, đồng thời một bộ phận tượng binh và kỵ binh cũng được đưa vào trong biên chế
của đội hình bộ binh. Nhờ vậy mà khả năng đột kích của bộ binh trong chiến đấu tiến công đã
được tăng lên rõ rệt. Nếu so sánh với bộ binh của quân đội Trịnh ở Đàng Ngoài và Nguyễn ở
Đàng Trong, không kể số lượng thì bộ binh của quân đội Tây Sơn luôn chiếm ưu thế hơn hẳn
về khả năng cơ động, hỏa lực và sức đột phá tiến công. Còn với bộ binh của quân đội Mãn
Thanh do không có tượng binh, nên sức mạnh đột kích cũng hạn chế hơn so với bộ binh quân
đội Tây Sơn. Chỉ như vậy cũng thấy rằng, xây dựng quân đội với nhiều thành phần lực lượng
(binh chủng) dựa trên thế mạnh đặc trưng của từng thành phần để tạo ra sức mạnh ưu thế đảm
bảo chiến thắng quân thù là một trong những điểm cốt lõi trong tư tưởng xây dựng quân đội
của triều Tây Sơn - Nguyễn Huệ.
Về tượng binh, trong quân đội Tây Sơn có khoảng vài trăm thớt voi chiến. Khi trực
tiếp tham gia chiến đấu, trên lưng mỗi tượng binh đều bố trí hoặc hoả hổ, hoặc đại bác thần
cơ. Với uy thế của tầm vóc hình thể và những loại hoả lực ưu thế mang trên lưng, voi chiến
thực sự là "phương tiện" đột kích đặc biệt hữu hiệu. Khi hành quân tác chiến, voi là phương
tiện cơ động, chuyên chở lực lượng, vũ khí và trang bị nặng. Chỉ như vậy, tượng binh thực sự
là một thành phần đặc trưng, một chất lượng mới vượt trội về sức mạnh đột kích đảm bảo
thắng lợi trong tác chiến mà quân đội nói chung, bộ binh nói riêng của nhà Trịnh, nhà Nguyễn
và nhất là đối với quân đội nhà Thanh không có được. Về số lượng, tượng binh của quân đội
Tây Sơn trưởng thành nhanh chóng cùng với quá trình chiến thắng trong công cuộc đánh dẹp
các tập đoàn phong kiến phản động trong nước. Đó là, ngay từ những năm đầu, khi tiến đánh
Quy Nhơn, Đà Nẵng và Phú Yên, quân Tây Sơn đã thu được gần 100 voi chiến từ quân
Nguyễn. Còn đối với quân đội chúa Trịnh, thời kỳ này có khoảng 500 voi chiến. Theo
sáchThánh vũ ký, sau khi tiến ra tiêu diệt quân Trịnh, giải phóng Thăng Long, quân Tây Sơn
- Nguyễn Huệ đã tịch thu và mang phần lớn số voi chiến vào Quy Nhơn, chỉ để lại Bắc Hà 50
thớt. Tuy đến nay, số lượng tượng binh cụ thể của quân Tây Sơn là bao nhiêu vẫn chưa xác
định được, nhưng điều chắc chắn là lúc cao nhất phải tới 500 thớt.
Đại bác thần cơ (pháo binh) của quân đội Tây Sơn cũng có bước tiến dài so với quân
đội của các triều đại trước đó, cũng như so với quân đội họ Nguyễn ở Đàng Trong và họ Trịnh
ở Đàng Ngoài cùng thời gian này. Ngoài số lượng đại bác các cỡ chiếm ưu thế vượt trội, tính