LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM - TẬP 2 - Trang 85

Với chính sách này, đương nhiên số ruộng đất khai hoang được xung làm ruộng đất

công của làng ấp mới thành lập và đặt dưới quyền sở hữu tôi cao của chúa Nguyễn. Người
nông dân cày ruộng đất đó phải nộp tô, thuế và làm nghĩa vụ lao dịch, binh dịch cho chính
quyền họ Nguyễn.

Trải qua quá trình thực hiện chính sách khai hoang, vùng đất Thuận Hóa - Quảng Nam

nhanh chóng trở thành khu vực kinh tế nông nghiệp phát triển, với các xóm làng đông đúc và
cơ cấu tổ chức xóm làng có nhiều nét giống với Đàng Ngoài. Ở đây ruộng đất công làng xã
tồn tại khá phổ biến. Bên cạnh đó còn có một diện tích đáng kể thuộc quyền sở hữu nhà nước.
Họ Nguyễn gọi loại ruộng đất này là quan đồn điền và quan điền trang và coi đó là tài sản
riêng của mình.

Ruộng đất và thuế khoá ở Thuận Hóa - Quảng Nam thời Nguyễn Hoàng hầu như vẫn

được duy trì theo các quy định cũ của nhà Lê. SáchĐại Nam thực lục tiền biên cho biết: "Thuế
ruộng hai xứ Thuận Hóa - Quảng Nam chưa có định ngạch, mỗi năm gặt xong sai người chiếu
theo số ruộng đất hiện cấy mà thu thuế”

24

. Số ruộng cày cấy hằng năm là con số mà các phủ,

huyện tự khai và chúa Nguyễn cho tổng hợp lại rồi báo cáo về triều đình, đồng thời cũng tính
được tổng số lượng thuế phải nộp. Từ sau năm Canh Dần (1600), mặc dù từ chối việc trở về
triều đình yết kiến vua Lê, nhưng trong thực tế các chính sách về ruộng đất và thuế khoá mà
Nguyễn Hoàng thực thi cũng chưa có thay đổi đáng kể. Mọi kỳ vọng "dựng lên nghiệp lớn”
và biến Đàng Trong thành giang sơn riêng của dòng họ mình, Nguyễn Hoàng phó thác cả vào
Nguyễn Phúc Nguyên.

Ruộng tư ở khu vực Thuận Hóa - Quảng Nam thời kỳ chúa Nguyễn mới vào dựng

nghiệp cũng đã xuất hiện nhưng chắc chắn chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Tuy nhiên hành động
"chiếm công vi tư” vẫn thường diễn ra và ngày một gay gắt. Chúa Nguyễn nhận thấy tư hữu
hoá ruộng đất là xu thế không thể ngăn cản nổi, từ năm Kỷ Dậu (1669) đã chấp nhận một thực
tế là "nếu có người khai khẩn rừng hoang mà cày thành ruộng thì cho trưng làm ruộng tư (bản
bức tư điền) cho cày mãi mà nộp thuế riêng, xã dân không được tranh chiếm"

25

. Đây là lần

đầu tiên chúa Nguyễn chính thức khẳng định quyền sở hữu tư nhân của người khai khẩn và
thừa nhận ruộng đất mới được khai khẩn thêm là ruộng tư. Người sở hữu ruộng tư cũng phải
nộp mức thuế không khác ruộng công (tuy nhiên không phải nộp thêm các tiền sai dư, gạo
cước, thường tân, tiết liệu... như ruộng công). Chính sách này là một bước đột phá, thúc đẩy
nhanh hơn quá trình khai phá, mở rộng đất đai xuống phía Nam, làm thay đổi căn bản bức
tranh sở hữu ruộng đất ở Đàng Trong. Tuy nhiên, ở khu vực Thuận Hóa - Quảng Nam lúc này
công cuộc khai hoang về cơ bản đã hoàn thành, số ruộng "bản bức tư điền” được bổ sung
thêm không đáng kể (chủ yếu chỉ ở khu vực Quảng Nam), do đó tỷ lệ ruộng tư ở Thuận Hoá
là thấp nhất, tiếp đến Quảng Nam và càng tiến dần xuống phía Nam thì tỷ lệ ruộng tư càng
chiếm ưu thế tuyệt đối so với ruộng công.

Khu vực từ Phú Yên trở xuống phía Nam và nhất là khu vực Nam Bộ cho đến những

thập kỷ 60, 70 của thế kỷ XVII, đất hoang vẫn còn rất nhiều. Chúa Nguyễn cho phép biến

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.