bền vững. Muốn có sức dân mạnh chính quyền phải thuận lòng dân, trước
hết cần bắt đầu từ việc chăm lo đến đời sống nhân dân.
4. Xây dựng tinh thần đoàn kết cả nước cùng đánh giặc: Trong
kháng chiến chống giặc ngoại xâm phải biết phát huy cao độ sức mạnh của
nhân dân, biết tập hợp các tầng lớp nhân dân thành một khối đoàn kết và
thống nhất. Tinh thần đoàn kết đánh giặc phải được xây dựng ở mọi cấp độ,
trong nội bộ triều đình, triều đình với nhân dân, tướng với quân,...: "Bách
tộc vi binh" (Trăm họ ai cũng là binh); "Phụ tử chi binh" (Cha con đều là
lính), "Tướng sĩ một lòng phụ tử" (Tướng và quân một lòng như cha con).
5. Trường kỳ kháng chiến: Vì địch mạnh, ta yếu nên đường lối
chiến lược chung là phải đánh giặc lâu dài, vừa đánh vừa xây dựng, phát
triển lực lượng từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh. Ngoài ra,
phải biết chủ động trong mọi tình thế, tránh chỗ mạnh và đánh chỗ yếu của
địch, lấy đoản binh chế trường trận. Mặc dù trường kỳ đánh địch nhưng khi
cơ hội đến thì phải chớp lấy, tiến công "thần tốc, táo bạo" mở những trận
quyết chiến chiến lược để kết thúc chiến tranh.
6. Phải coi trọng chất lượng quân đội: Phương châm chung là "quý
hồ tinh bất quý hồ đa" (quân cốt tinh nhuệ chứ không cốt nhiều); phải xây
dựng đội ngũ tướng lĩnh tài giỏi "vì binh lấy tướng làm gốc, quân lấy tướng
làm chủ".
Mặc dù có một kho tàng kinh nghiệm giữ nước được đúc rút từ thực
tiễn chiến tranh qua nhiều thế hệ, nhưng triều Nguyễn lại không biết kế
thừa, sử dụng và phát huy đầy đủ, có hiệu quả vào chiến lược quốc phòng
của mình. Có những bài học dường như đã bị quên lãng hay có biết cũng
không thể vận dụng được vì bất lực. Chẳng hạn, tư tưởng lấy dân làm gốc,
chăm lo cho dân và phát huy sức mạnh toàn dân không được quan tâm đầy
đủ, khiến nhân dân ngày càng oán ghét và xa rời triều đình. Làm sao có
được tinh thần đoàn kết giữa tướng và quân khi tướng tìm đủ mọi cách vơ
vét và ăn chặn của quân. Quân và dân làm sao có thể hòa hợp như cá với
nước khi mà quân đội triều đình đi đàn áp nhân dân.