khởi nghĩa địa phương có thể là những vùng rừng núi, nơi tiện cho việc xây
dựng căn cứ địa cách mạng và lối đánh du kích
67
.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-
1941) dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dành thời gian thảo
luận về phong trào cách mạng của nhân dân từ đầu Chiến tranh thế
giới thứ hai đến lúc đó; đặc biệt thảo luận và phân tích kỹ ba cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và Đô Lương. Đúc kết thực tiễn phong
trào, Nghị quyết Hội nghị xác định: “Mặc dù sự đàn áp của giặc Pháp
rất dữ dội mà dân ta vẫn không lùi. Những cuộc khởi nghĩa lại gây
một ảnh hưởng rộng lớn toàn quốc. Đó là những tiếng súng báo hiệu
cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của
các dân tộc ở một nước Đông Dương”
68
.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn phong phú, Nghị quyết Hội nghị
dành hẳn một phần viết về “võ trang khởi nghĩa”. Nghị quyết nhấn mạnh:
muốn có một lực lượng toàn quốc đủ sức gây ra và củng cố cho một cuộc
khởi nghĩa thì Đảng ta phải mở rộng và củng cố các tổ chức cứu quốc sẵn
có; mở rộng các tổ chức vào những nơi thành thị, hầm mỏ, đồn điền; mở
rộng các tổ chức vào các tỉnh phong trào còn yếu và các dân tộc thiểu số;
đào luyện cho các đảng viên cộng sản có tinh thần cương quyết hy sinh, đủ
năng lực chỉ huy và xoay chuyển tình thế, nhanh chóng xây dựng và phát
triển lực lượng vũ trang cách mạng. Hội nghị phân tích kỹ và chỉ ra mối
quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, từ đó khẳng định
hình thái khởi nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ
hai: “... mai đây cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và cuộc kháng chiến
của nhân dân Tàu xoay ra hoàn toàn cho cuộc cách mạng Đông Dương
thắng lợi, thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi
nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà
mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”
69
.
Lần đầu tiên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng đã dành
một phần viết về khởi nghĩa vũ trang và cũng lần đầu tiên Đảng ta